✨Tính dục nam ở người
Tính dục nam ở người bao gồm nhiều loại cảm xúc và hành vi. Cảm giác bị thu hút (bởi ai và giới nào) của người nam có thể bắt nguồn từ đặc điểm thể chất và xã hội của bạn tình tiềm năng của họ. Hành vi tình dục của người nam có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó bao gồm các khuynh hướng tiến hoá, tính cách, giáo dục và văn hoá. Trong khi đa số người nam là người dị tính, có một số thiểu số đáng kể là người đồng tính hoặc song tính ở những mức độ khác nhau.
Hấp dẫn tình dục
Tiêu chuẩn bạn đời của nam giới đối với phụ nữ được dựa trên các yếu tố thể chất và phi thể chất. Có rất nhiều điểm tương đồng về tiêu chuẩn của nam giới trong các nền văn hoá khác nhau, nhưng cũng có một số điểm khác biệt đáng chú ý.
Yếu tố thể chất
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nam giới có xu hướng bị thu hút bởi những phụ nữ trẻ có hình thể cân đối. Sự cân xứng trên khuôn mặt, sự nữ tính và tính chuẩn mực cũng có liên quan đến sức hấp dẫn. Đàn ông thường thấy ngực phụ nữ hấp dẫn Sở thích đối với phụ nữ có màu da sáng hơn cũng đã được ghi nhận ở nhiều nền văn hoá. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Waist_to_hip_ratio.jpg|phải|nhỏ|218x218px|So sánh giữa tỉ lệ eo-hông đáng mơ ước (0.7) và tỉ lệ eo-hông không đáng mơ ước (0.9). Phụ nữ có tỷ lệ eo-hông (WHR) tương đối thấp được coi là hấp dẫn hơn. Tỷ lệ chính xác giữa các nền văn hoá là khác nhau, tuỳ thuộc vào chỉ số WHR của phụ nữ trong văn hoá địa phương. Trong nhiều nền văn hoá phương Tây, chỉ số WHR khoảng 0.70 được yêu thích hơn. Các yếu tố thể chất khác ảnh hưởng đến sự hấp dẫn bao gồm chỉ số khối cơ thể thấp, vòng eo nhỏ, chân dài và độ cong lưng dưới lớn.
Giáo dục và nhân cách
Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng có một số yếu tố ảnh hưởng đến tuổi quan hệ tình dục lần đầu ở những người tuổi từ 13-18. Những người sống trong gia đình đầy đủ cha mẹ, nền tảng kinh tế xã hội cao, học giỏi hơn ở trường, sùng đạo hơn, được cha mẹ kỳ vọng nhiều hơn và cảm thấy được cha mẹ quan tâm nhiều hơn có mức độ hoạt động tình dục thấp hơn ở mọi nhóm tuổi. Ngược lại, những người có mức độ tự hào về cơ thể cao hơn có mức độ hoạt động tình dục cao hơn.
Xu hướng quan hệ ngoài luồng
Nam giới đang trong một mối quan hệ ràng buộc có xu hướng quan hệ ngoài luồng có hạn chế và có hành vi tình dục khác với nam giới có xu hướng quan hệ ngoài luồng không hạn chế. Nam giới có hạn chế về quan hệ ngoài luồng sẽ ít sẵn sàng quan hệ tình dục ngoài mối quan hệ ràng buộc của họ, và họ thường hành xử theo mong muốn về sự ràng buộc và gần gũi tình cảm với bạn đời của họ.
Nam giới hạn chế quan hệ ngoài luồng có ít xu hướng tiếp cận phụ nữ có tỉ lệ eo hông thấp hơn (khoảng 0.68 - 0.72) - những người thường được đánh giá là có sức hấp dẫn thể chất lớn hơn.
Sự đầu tư kỳ vọng của cha mẹ
Elizabeth Cashdan cho rằng chiến lược tìm kiếm bạn tình giữa hai giới khác nhau tùy thuộc vào mức độ đầu tư cho con cái được mong đợi từ phía nam giới, đồng thời cung cấp nghiên cứu hỗ trợ cho giả thuyết của cô. Khi nam giới mong muốn đầu tư, họ sẽ cố gắng thu hút phụ nữ bằng cách nhấn mạnh khả năng đầu tư của họ. Ngoài ra, nam giới mong đợi đầu tư sẽ có nhiều khả năng đề cao sự trong trắng và chung thủy của họ hơn nam giới không mong đợi đầu tư. Nam giới có mong đợi đầu tư thấp sẽ phô trương khả năng tình dục của họ với phụ nữ. Cashdan lập luận rằng trên thực tế, nghiên cứu này ủng hộ ý tưởng rằng nam giới mong đợi đầu tư sẽ nhấn mạnh sự trong trắng và chung thủy của họ, chiến lược mà có cái giá phải trả cao (vì nó làm giảm cơ hội sinh sản), và gợi ý rằng kiểu hành vi đó có lợi, vì nếu không nó sẽ không được chọn.
Trong các xã hội cho phép phức hôn, nam giới thường ghen tuông nhiều hơn khi mức độ chắc chắn về quan hệ cha con thấp. Điều này là do họ không muốn mạo hiểm để lãng phí thời gian, tài nguyên và năng lượng cho một đứa trẻ không phải con mình.
Sự khác biệt về kinh tế - xã hội giữa các nền văn hoá cũng ảnh hưởng đến mức độ chắc chắn về quan hệ cha con. Ví dụ, ở một quốc gia "sinh sản tự nhiên" như Namibia, 96% nam giới có biểu hiện ghen tuông tình dục.
Ngoài ra, việc thiếu các biện pháp tránh thai cũng dẫn đến khả năng mất đi quyền nuôi con hay mức độ chắc chắn về quan hệ cha con giảm. Có thể hiếp dâm là phụ phẩm không thích nghi của các cơ chế tiến hoá khác, chẳng hạn như ham muốn tình dục đa dạng, quan hệ tình dục không cần đầu tư, nhạy cảm với những cơ hội tình dục và khả năng bạo hành thể xác nói chung. Vai trò giới nam tính, ý thức về quyền lợi chung và quyền lợi tình dục dự đoán về thái độ và hành vi liên quan đến hiếp dâm ở nam giới. Tuy nhiên, có thể chọn lọc tự nhiên trong môi trường nguyên thủy đã thiên vị con đực cưỡng hiếp trong một số trường hợp, dẫn đến việc bản thân hành vi hiếp dâm trở thành một sự thích nghi. Các học giả đến từ nhiều lĩnh vực đã chỉ trích ý tưởng này. Về vấn đề này, David Buss nói rằng cả hai ý kiến đều thiếu bằng chứng rõ ràng. Bailey và cộng sự tuyên bố, họ cho rằng trong mọi nền văn hoá, đại đa số mọi người đều dị tính, với một số thiểu số là đồng tính, dù có hoàn toàn hay không. Tổ chức Y tế Thế giới ước tính tỷ lệ nam giới quan hệ tình dục đồng giới trên toàn thế giới từ 3 đến 16%.
Xu hướng tính dục có thể được đo lường thông qua tự báo cáo hoặc qua sinh lý. Có nhiều phương pháp sinh lý học tồn tại, bao gồm đo độ cương cứng của dương vật, thời gian nhìn, fMRI và độ giãn đồng tử. Ở nam giới, tất cả những điều này đều cho thấy mức độ tương quan cao với các biện pháp tự báo cáo,
Trong phần lớn thế giới hiện đại, bản dạng tính dục được xác định dựa trên giới tính bạn tình. Tuy nhiên, ở một số nơi trên thế giới, tính dục thường được xã hội định nghĩa dựa trên vai trò tình dục, một người là người thâm nhập hay bị thâm nhập.
Nguyên nhân
Mặc dù chưa có thuyết lý giải nào nhận được sự ủng hộ rộng rãi, nhưng có nhiều bằng chứng ủng hộ các nguyên nhân phi xã hội của xu hướng tính dục hơn so với các nguyên nhân xã hội, đặc biệt là đối với nam giới. Bằng chứng này bao gồm mối tương quan giữa đồng tính và sự không theo chuẩn về giới ở thời thơ ấu, ảnh hưởng di truyền có mức độ vừa phải được tìm thấy trong các nghiên cứu sinh đôi, bằng chứng về tác động của hormone trước khi sinh đối với tổ chức não, hiệu ứng thứ tự sinh anh em trai và phát hiện rằng trong một số trường hợp hiếm hoi khi trẻ sơ sinh nam được nuôi dưỡng như những cô gái do dị tật thể chất, nhưng họ vẫn bị thu hút bởi phụ nữ. Các giả thuyết được đưa ra về nguyên nhân xã hội chỉ được hỗ trợ bởi bằng chứng không thuyết phục, bị bóp méo bởi nhiều yếu tố gây nhiễu.
Người ta vẫn chưa hoàn toàn hiểu lý do tại sao các gen quy định hoặc cho phép đồng tính phát triển vẫn tồn tại trong vốn gen, dù chúng có thể là gì. Một giả thuyết liên quan đến việc chọn lọc theo dòng dõi cho rằng những người đồng tính đầu tư đủ mạnh vào người thân của họ để bù đắp chi phí không sinh sản nhiều một cách trực tiếp. Điều này không được chứng minh bởi các nghiên cứu ở các nền văn hóa phương Tây, nhưng một số nghiên cứu ở Samoa đã tìm thấy một vài minh chứng cho giả thuyết này. Một giả thuyết khác nhắc đến các gen xung đột tình dục - những gen là nguyên nhân của đồng tính luyến ái khi biểu hiện ở con đực nhưng lại tăng sinh sản khi biểu hiện ở con cái. Các nghiên cứu ở cả các nền văn hóa phương Tây và không phải phương Tây đã tìm thấy minh chứng cho giả thuyết này. mặc dù tính chất này sẽ khác nhau về mặt di truyền giữa các cá nhân
