✨Tiền tệ Đại Việt thời Tây Sơn
thumb|right|Tây Sơn Dynasty coinage in the National Museum of Vietnamese History, (2018)|Tiền tệ Tây Sơn.
Tiền tệ Đại Việt thời Tây Sơn phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Tây Sơn (1778-1802) trong lịch sử Việt Nam.
Tiền trong đời sống kinh tế - xã hội
Triều đại Tây Sơn tồn tại khá ngắn ngủi (1778-1802), hơn nữa những di sản của triều đại này bị nhà Nguyễn phá hủy rất nhiều, trong đó có các tư liệu về kinh tế đương thời.
Rút kinh nghiệm từ tiền kẽm có chất lượng không tốt thời chúa Nguyễn, các vua nhà Tây Sơn chủ yếu đúc tiền bằng đồng. Tiền kẽm chiếm tỷ lệ thấp, chủ yếu là tiền của vua Thái Đức trong thời gian đầu, khi chính quyền Tây Sơn chưa kiểm soát được miền Bắc vì vùng Thuận Hóa – Quảng Nam không có mỏ đồng. Nhà Tây Sơn phải thu các đồng tiền bằng đồng của nhà Hậu Lê làm nguyên liệu đúc ra tiền mới, mỏng nhẹ dễ lưu thông, với số lượng lớn.
Vua Cảnh Thịnh có đúc những đồng tiền cỡ lớn như tiền Cảnh Hưng nhà Hậu Lê, nhưng ngày nay không có sử liệu nào ghi chép tỷ giá giữa tiền nhỏ và tiền lớn ra sao.
Thông thường trong các thời đại phong kiến trước đó, tiền Trung Quốc của các triều đại cùng thời vẫn được đưa sang lưu hành cùng tiền do các hoàng đế Đại Việt đúc. Nhưng tới thời Tây Sơn, các nhà khảo cổ khẳng định đó là lần đầu tiên, tiền Tây Sơn – tiền của một triều đại Đại Việt lưu thông trên lãnh thổ Đại Việt chiếm số lượng áp đảo so với tiền Càn Long và Gia Khánh (các vua Thanh cùng thời). Ngay ở những miền biên viễn như Móng Cái (Quảng Ninh) hay ở hải đảo xa như Vân Hải, tiền Quang Trung và Cảnh Thịnh cũng được phân bố nhiều và là hiện vật khảo cổ phong phú nhất, dễ kiếm nhất.
Sang thời Minh Mạng (từ 1820), nhà Nguyễn ra lệnh cho dân chúng đổi 2 đồng tiền Tây Sơn lấy 1 đồng tiền kẽm của nhà Nguyễn, rồi thu hồi hết tiền nhà Tây Sơn, nung chảy để nấu tiền Minh Mạng. Sang năm 1822 do vẫn chưa thu hồi hết, nên triều đình nhà Nguyễn lại gia hạn thêm 1 năm nữa để thu hồi.
Như vậy dù nhà Tây Sơn bị nhà Nguyễn coi là ngụy triều nhưng tiền do triều đại này đúc tiếp tục được lưu hành vào thời Nguyễn với thời gian ít nhất trong 38 năm (1802-1840), còn dài hơn cả thời gian tồn tại của triều đại đã phát hành ra nó (1778-1802). Hai chữ Vạn tuế viết như ở tiền Thái Đức thông bảo, một loại chữ Tuế viết thảo cách khác.
Trong lịch sử, Minh Đức còn là niên hiệu của vua Hậu Thục thời Ngũ đại Thập quốc (934-937) ở Trung Quốc và Mạc Thái Tổ (1527-1529) ở Đại Việt. Tuy nhiên, giới khảo cổ nhận định, tiền Minh Đức thông bảo có những đặc điểm của thế kỷ 18 và hoàn toàn giống tiền Thái Đức thông bảo, thư pháp giống hệt nhau, đều có chữ Vạn Tuế và chỉ khác ở chữ "Thái" thay bằng chữ "Minh", nên có thể khẳng định đây là đồng tiền do Nguyễn Nhạc ban hành, không mang niên hiệu mà mang đế hiệu của vua.
Các chuyên gia Nhật Bản và Trung Quốc cũng khẳng định Minh Đức thông bảo – Vạn tuế và Thái Đức thông bảo – Vạn tuế đều được Nguyễn Nhạc đúc vào năm 1787.
;Quang Trung thông bảo, Quang Trung đại bảo Quang Trung đại bảo [[Nguyễn Huệ|Quang Trung thông bảo]]
Trong thực tế, khảo cổ học tìm thấy rất nhiều tiền Quang Trung khắp nơi, đặc biệt nhiều từ đèo Hải Vân ra Bắc. Quang Trung đã cho phát hành hai loại tiền mang niên hiệu của ông, đó là Quang Trung thông bảo và Quang Trung đại bảo. Tiền này lưu hành song song với tiền Thái Đức. Sau khi đánh tan quân Thanh, vua Quang Trung đã đúc tiền Quang Trung thông bảo – mặt lưng có hai chữ An Nam và đưa kèm sang cùng đồ triều cống cho Càn Long trong lần sai sứ sang cầu phong. Các đại thần nhà Thanh giận nhưng không dám đệ trình chuỗi tiền này lên Càn Long.
;Cảnh Thịnh thông bảo Cảnh Thịnh thông bảo Cảnh Thịnh thông bảo có loại nhỏ và loại lớn. Đây là tiền mang niên hiệu đầu tiên của Nguyễn Quang Toản, vị vua cuối cùng của nhà Tây Sơn.
Về kiểu dáng và thiết kế thì Cảnh Thịnh thông bảo loại nhỏ không khác gì tiền Quang Trung thông bảo, nhưng chất lượng đúc có phần tốt hơn. Cảnh Thịnh thông bảo cũng có loạt mặt sau giống mặt trước như một loạt của Quang Trung thông bảo. Ngoài ra lại còn có một loạt tiền mà một mặt là Cảnh Thịnh thông bảo và một mặt là Quang Trung thông bảo.
Cảnh Thịnh thông bảo loại lớn được đúc cẩn thận, thiết kế cầu kỳ, đường kính tới 48 mm, dày tới 5 mm. Viền gờ mép ở hai mặt là một vành văn triện hình chữ T, viền gờ lỗ ở hai mặt là hai hình vuông lồng vào nhau. Mặt trước tiền có bốn chữ Cảnh Thịnh thông bảo đọc chéo. Mặt sau có hình rồng, mây ở phía trên lỗ, lại có hình cá chép và hình sóng nước ở phía dưới lỗ. Đỗ Văn Ninh cho rằng tiền này hoa văn giống với tiền Cảnh Hưng nên có thể là theo mẫu tiền Cảnh Hưng mà làm.
; Cảnh Thịnh đại bảo: Dạng chính rộng 23 mm, mặt lưng không có chữ. Loại tiền Cảnh Thịnh đại bảo loại nhỏ đường kính 21 mm, cả hai mặt đều có trùng luân.
; Bảo Hưng thông bảo Đồng tiền cuối cùng của nhà Tây Sơn, đường kính 22 mm, cũng mỏng như tiền Quang Trung, mặt lưng không ghi chữ gì.
Những đồng tiền lạ
Có bốn loại tiền lạ thời Tây Sơn là:
Quang Trung thông bảo 2 mặt giống nhau
Quang Trung thông bảo, mặt kia là Quang Trung đại bảo
Cảnh Thịnh thông bảo 2 mặt giống nhau
Cảnh Thịnh thông bảo mặt kia Quang Trung thông bảo
Cách lý giải phổ biến nhất là do thợ đúc ráp nhầm 2 mặt khuôn đúc nên nảy ra những đồng tiền này. Tuy nhiên, giới khảo cổ đặt ra giả thiết khác: có thể các đồng tiền này được đúc với mục đích khác mà chưa có câu trả lời đích xác, trong đó có khả năng vua Cảnh Thịnh đúc những đồng tiền mang cả hai niên hiệu trong những tháng cuối năm 1792 khi Quang Trung vừa qua đời để tưởng nhớ cha.
