✨Thành nhà Hồ
Thành nhà Hồ (hay còn gọi là thành Tây Đô, thành An Tôn, thành Tây Kinh hay thành Tây Giai) là kinh đô nước Đại Ngu (quốc hiệu của Việt Nam dưới thời nhà Hồ), nằm trên địa phận tỉnh Thanh Hóa. Đây là tòa thành kiên cố với kiến trúc độc đáo bằng đá có quy mô lớn hiếm hoi ở Việt Nam, có giá trị và độc đáo nhất, duy nhất còn lại ở tại Đông Nam Á và là một trong rất ít những thành lũy bằng đá còn lại trên thế giới. Thành được xây dựng trong thời gian ngắn, chỉ khoảng 3 tháng (từ tháng Giêng đến tháng 3 năm 1397) và cho đến nay, dù đã tồn tại hơn 6 thế kỷ nhưng một số đoạn của tòa thành này còn lại tương đối nguyên vẹn.
Ngày 27 tháng 6 năm 2011, sau 6 năm đệ trình hồ sơ, Thành nhà Hồ đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, thành cũng được CNN đánh giá là một trong 21 di sản nổi bật và vĩ đại nhất thế giới. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 62 di tích quốc gia đặc biệt. Từ tháng 12 năm 2018 đến tháng 6 năm 2020, Quỹ Bảo tồn Văn hóa của Đại sứ Hoa Kỳ (AFCP) đã tài trợ 92,500 USD vào dự án bảo tồn Cổng Nam, Thành nhà Hồ.. Trải qua hơn 600 năm, những bức tường thành vẫn đứng vững.
Được xây dựng và gắn chặt với một giai đoạn đầy biến động của xã hội Việt Nam, với những cải cách của vương triều Hồ và tư tưởng chủ động bảo vệ nền độc lập dân tộc, Thành Nhà Hồ còn là dấu ấn văn hóa nổi bật của một nền văn minh tồn tại tuy không dài, nhưng luôn được sử sách đánh giá cao
Kết cấu
nhỏ|Cổng Bắc thành nhà Hồ - chụp năm 1998
Thành hình gần vuông, mỗi cạnh trên dưới 800m và chu vi trên 3,5 km. Thành phía ngoài xây bằng đá, bên trong xây bằng đất đầm nện chắc, mở bốn cửa theo bốn hướng Nam, Bắc, Đông, Tây. Tường thành đá bên ngoài xây bằng những khối đá nặng trung bình 10-16 tấn, có khối nặng đến trên 26 tấn, được đẽo gọt khá vuông vắn và lắp ghép theo hình chữ công (I) tạo nên sự liên kết kiên cố. Đất đắp bên trong thoai thoải dần. Thành qua thời gian trên 6 thế kỷ đã bị bào mòn và có chỗ bị sạt lở, nhưng di tích tường thành chỗ còn lại vẫn dày khoảng 4-6m, chân thành rộng khoảng trên 20m. Bốn cửa thành xây theo kiểu vòm cuốn, bằng đá, riêng cửa Nam là cửa chính có ba cổng ra vào, dài trên 34m, cao hơn 10m. Hào bao quanh thành cho đến nay vẫn còn có đoạn rộng khoảng 10-20m và La thành bảo vệ vòng ngoài. Theo sử liệu, trên thành còn xây tường bằng gạch mà khảo cổ học đã phát hiện khá nhiều, trên nhiều viên gạch còn khắc tên đơn vị các làng xã được điều động về xây thành. Ngoài ra còn nhiều kiến trúc khác, trong đó đàn Nam Giao xây trên sườn phía Tây Nam núi Đốn Sơn bằng đá quy mô khá lớn. Hiện các kiến trúc cung điện, tường gạch bên trên thành cùng các bộ phận bằng gạch, gỗ bị sụp đổ, hủy hoại và tòa thành cũng không tránh khỏi có phần bị sạt lở, nhưng gần như tổng thể kiến trúc bằng đá vẫn tồn tại.
Khu di tích thành nhà Hồ
Khu di tích thành nhà Hồ với trung tâm là thành nhà Hồ, nằm ở phía tây huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa, gần quốc lộ 45. Khu di tích này nằm giữa sông Mã và sông Bưởi, thuộc địa giới hành chính các xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Thành, Vĩnh Long, Vĩnh Yên, Vĩnh Quang, Ninh Khang, thị trấn Vĩnh Lộc, một phần xã Vĩnh Phúc (huyện Vĩnh Lộc) và một phần xã Thạch Long (huyện Thạch Thành). Ngoài thành nhà Hồ, được gọi là thành trong, khu di tích này có:
Tường thành và Hào thành
La Thành
Bao quanh toàn bộ tòa thành đá và hào thành là La Thành.
Đại Việt sử ký toàn thư cho biết Hồ Quý Ly "sai Trần Ninh đốc suất người phủ Thanh Hóa trồng tre gai ở phía Tây thành, phía Nam từ Đốn Sơn, phía Bắc từ An Tôn đến tận cửa Bào Đàm, phía Tây từ chợ Khả Lãng ở Vực Sơn đến sông Lỗi Giang (sông Mã), vây quanh làm tòa thành lớn bọc phía ngoài. Dân chúng ai lấy trộm măng thì bị xử tử".
Đại Nam nhất thống chí chép: "phía ngoài thành lại đắp đất làm La Thành, phía tả từ tổng Cổ Biện, phía Đông qua các xã Bút Sơn và Cổ Điệp ven theo sông Bảo (nay là sông Bưởi) chạy về núi Đốn Sơn, phía hữu từ tổng Quan Hoàng, huyện Cẩm Thủy theo ven sông Mã chạy về Đông thẳng đến núi Yên Tôn mấy vạn trượng" (Đại Nam nhất thống chí 2006: 313 - 314).
La Thành hiện còn là một tòa thành đất cao khoảng 6m, mặt cắt dạng hình thang với bề mặt rộng 9,20m, chân thành rộng khoảng 37m. Mặt ngoài dốc đứng, phía trong thoai thoải kiểu bậc thang, mỗi bậc cao 1,50m, một số vị trí có trộn thêm sạn sỏi gia cố.
Kết quả thám sát năm 2010 ở khu vực thôn Xuân Áng, xã Vĩnh Long cho thấy, đất đắp La Thành bằng các loại đất sét màu vàng, màu xám hoặc xám xanh có lẫn các đá sạn laterít.
Một đoạn La thành - Thành Nhà Hồ
Toàn bộ La Thành được đào đắp dựa theo địa hình tự nhiên, có đoạn thì nối liền với núi đá, lấy núi đá làm bức tường thành thiên nhiên hùng vĩ, có đoạn thì nương theo các dòng sông.
Ngày nay, trên thực địa, La Thành vẫn còn dấu vết từ núi Đốn Sơn (xã Vĩnh Thành) đến núi Hắc Khuyển (xã Vĩnh Long), các núi Xuân Đài, Trác Phong, Tiến Sỹ (xã Vĩnh Ninh), núi Kim Ngọ (xã Vĩnh Tiến), núi Ngưu Ngọa, núi Voi (Xã Vĩnh Quang). Trong đó có những đoạn là đê của sông Bưởi và sông Mã (hình 50-52).
Sự kiên cố, cấu trúc lũy thành với mặt ngoài thẳng đứng trong thoai thoải cho thấy rõ tính chất phòng vệ quân sự của La Thành. Mặt khác La Thành cũng triệt để nối các quả núi tự nhiên như núi Voi, núi Đốn, nhiều đoạn chạy theo thế uốn của sông Bưởi và sông Mã mang thêm chức năng là đê phòng lũ lụt cho toàn bộ kinh thành. Đây cũng là truyền thống đắp thành của người Việt đã từng hiện diện ở các di tích như thành Cổ Loa (Hà Nội) thế kỷ 3 trước CN, thành Hoa Lư (Ninh Bình) thế kỷ 10, thành Thăng Long thể kỷ 11 – 18.
Nhiều đoạn La Thành trải qua 6 thế kỷ vẫn còn khá nguyên vẹn với các lũy tre trải dài bát ngát, tương truyền cũng là dấu tích lâu đời gợi nhớ đến việc nhà Hồ cho trồng tre gai bảo vệ kinh thành cuối thế kỷ 14.
Đàn Nam Giao
Nền đàn được đầm nện bằng các loại đá dăm núi, móng tường đàn và tường đàn được xây dựng bằng các loại đá xanh và gạch ở hai bên, ở giữa nhồi đất. Tường đàn có mái lợp các loại ngói mũi sen, ngói mũi lá và ngói âm dương. Mặt nền đàn được lát bằng loại gạch vuông cỡ lớn. Các đường đi trong đàn được lát đá.
Ngói đầu đao - Thành Nhà Hồ
Góc Đông Nam đã tìm thấy một giếng nước lớn có cấu trúc 2 phần: phần thành giếng được xây bằng các khối đá có mặt bằng hình vuông (13m x 13m) có bậc đi xuống nhỏ giật vào trong lòng theo lối "thượng thách hạ thu", phần lòng giếng hình tròn, mặt cắt hình phễu, phần miệng tròn có đường kính khoảng 6,50m, độ sâu tính từ miệng giếng vuông 4,90m (hình 138-151).
Đền thờ nàng Bình Khương
Đình Đông Môn
- Nhà cổ:
- Đền Tam Tổng:
Khu vực đền có diện tích 1500m2, lần trùng tu, tôn tạo gần đây nhất là năm 2005.
Đền được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh năm 1992.
- Hồ Mỹ Đàm:
- Hang Nàng và núi An Tôn:
- Chùa Giáng: Có tên chữ là Tường Vân tự, thuộc xã Vĩnh Thành, cách Thành Nhà Hồ khoảng 2,5 km về phía Đông Nam. Chùa được xây dựng dưới chân núi Đốn Sơn vào thời vua Trần Duệ Tông (1372 - 1377). Tổng thể kiến trúc chùa hiện khoảng 2ha, bao gồm các dãy nhà riêng biệt nằm trên 2 tầng thế đất khác nhau, đó là: Nhà Tứ Ân, nhà Phật điện, nhà Mẫu, nhà Điêu túc.
Chùa được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá Quốc gia năm 2009.
- Đền thờ Trần Khát Chân:
Đền được xây dựng ở sườn Đông Bắc núi Đốn Sơn vào thế kỷ 16, thờ Đức Thánh Lưỡng - Thượng tướng Trần Khát Chân, vị tướng có nhiều công lao đánh giặc dưới thời nhà Trần và có công xây dựng kinh thành Tây Đô (thời Hồ). Ngày nay, di tích vẫn còn giữ được nhiều văn bản Hán Nôm cổ (hơn 20 bản sắc phong, các hoành phi, câu đối) và các đồ thờ bằng gỗ đặc biệt có giá trị.
Đền được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá và kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia năm 2001.
- Chùa Du Anh:
Tương truyền công chúa Du Anh (thời Trần) đi du ngoạn, thấy cảnh núi sông nơi đây hữu tình đã cho xây dựng chùa vào năm 1270 và lấy tên mình để đặt tên chùa. Hiện nay, trong chùa còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị thời Trần (thế kỷ 14) như: Sư tử đá, nghê đá, voi đá. Đặc biệt là bia đá 4 mặt được tạc từ đá gốc nguyên khối do trạng Bùng Phùng Khắc Khoan soạn văn bia ghi việc trùng tu chùa năm 1606 đời vua Lê Kính Tông.
Chùa được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá Quốc gia năm 2009.
- Động Hồ Công:
Vấn đề công nhận và bảo tồn
Thống đất nung - Thành Nhà HồThành nhà Hồ đã được xếp hạng di tích quốc gia từ năm 1962. Mặc dù có nhiều dự án tôn tạo nhưng vẫn chưa được triển khai và thiếu công tác nghiên cứu cơ bản, các cổ vật đang bị phân tán và tòa thành bị tôn tạo "không đúng cách".
Tháng 6 năm 2011, thành Tây Đô đã được Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên Hợp Quốc (UNESCO) công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Đây là Di sản văn hóa thế giới thứ năm của Việt Nam sau phố cổ Hội An, cố đô Huế, thánh địa Mỹ Sơn, và Hoàng thành Thăng Long.
Tháng 10 năm 2018, Quỹ Bảo tồn Văn hóa của Đại sứ Hoa Kỳ (AFCP) đã thông qua khoản tài trợ trị giá 92,500 USD để bảo tồn Cổng Nam, công trình quan trọng nhất còn lại của Thành Nhà Hồ nhưng cũng là phần bị hư hại nghiêm trọng nhất. Dự án nhằm bảo tồn phiến đá phía Tây của Cổng Nam, đồng thời duy tu Cổng Nam, chống lại tác động của khí hậu và gìn giữ vẻ đẹp của Thành nhà Hồ. Dự án bắt đầu từ tháng 12 năm 2018, dưới sự giám sát của chuyên gia bảo tồn di sản người Thụy Sĩ gốc Việt Vũ Nam Sơn và Trung tâm quản lý di sản Thành Nhà Hồ, đến cuối tháng 6 năm 2020 thì hoàn thành.
Hình ảnh
