✨Thánh địa Cát Tiên
Thánh địa Cát Tiên là tên gọi quần thể di chỉ khảo cổ được phát hiện từ năm 1985, nằm trong một bồn địa rộng hàng trăm hecta và trải trên chiều dài khoảng 15 km dọc theo hệ thống sông Đạ Đường và Đồng Nai, bao gồm rất nhiều gò đồi và bãi bồi ven sông được bao bọc bởi dãy núi cuối cùng của Trường Sơn Nam. Toàn bộ khu di tích này thuộc địa phận kéo dài từ xã Quảng Ngãi đến xã Đức Phổ, trong đó mật độ di chỉ khảo cổ tập trung dày đặc ở khu vực xã Quảng Ngãi thuộc huyện Đạ Huoai của tỉnh Lâm Đồng, khu vực Nam Tây Nguyên.
Các khoa học gia đoán định thánh địa này xuất hiện khoảng thế kỷ 4 đến thế kỷ 8, thuộc về nền văn hóa của một vương quốc mà ý kiến của nhiều nhà khoa học, trong nỗ lực tìm kiếm chủ nhân đích thực của thánh địa, vẫn chưa đạt sự đồng thuận. Các hiện vật, lăng mộ và tháp tại Thánh địa Cát Tiên ra đời trong thời kỳ nào; thuộc phong cách nghệ thuật nào; chủ nhân là ai; nằm trong bối cảnh nào trong tiến trình lịch sử phương Nam; có vai trò gì trong quá trình hình thành quốc gia cổ đại; mối quan hệ của thánh địa với cộng đồng dân cư bản địa đã sinh sống nơi đây từ những thế kỷ trước công nguyên thuộc di chỉ tiền sử Phù Mỹ ra sao; là những câu hỏi gây tranh luận sôi nổi trong giới khảo cổ học, văn hóa học, sử học qua nhiều hội thảo, tọa đàm khoa học, và những thông tin tiếp tục hé lộ từ Cát Tiên vẫn luôn làm sửng sốt dư luận cũng như giới học giả trong và ngoài nước.
Sau 4 đợt khai quật đầu tiên kéo dài từ năm 1994 đến năm 2000, những phế tích của Cát Tiên dần hé lộ những bí ẩn sâu thẳm trong lòng đất qua hàng chục thế kỷ, và các nhà khoa học bước đầu xác định đây là một đô thị tôn giáo cổ mang ý nghĩa một thánh địa Bàlamôn giáo và Hindu giáo được kiến tạo trong giai đoạn lịch sử không thành văn kéo dài từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 11. Đây là lần đầu tiên ở Lâm Đồng cũng như ở Tây Nguyên phát hiện được một đô thị tôn giáo, một địa chỉ khảo cổ quan trọng để nghiên cứu sự hình thành quốc gia và những nhà nước cổ đại phương Nam, khác với nhận định lâu nay của nhiều nhà khoa học. Ngoài ra, xem xét cẩn trọng các hiện vật như nồi, vò, kendi, vòi kendi, rìu đồng và khuôn đúc, những đồ gốm thuộc giai đoạn Óc Eo sớm, đặc biệt là loại chai gốm cổ cao có nhiều trong các di tích Glimanuk, Plawangan ở Indonesia thuộc niên đại từ những thế kỷ đầu công nguyên, được tìm thấy ở thánh địa, cùng với việc phân tích các mẫu than lấy từ lòng tháp ở độ sâu gần 3m, đưa đi phân tích đồng vị phóng xạ cacbon C14 tại Viện Khảo cổ học thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Trung tâm Hạt nhân Thành phố Hồ Chí Minh, đã góp phần củng cố chắc chắn hơn giả thuyết này.
Ý kiến về chủ nhân của thánh địa vẫn còn trong vòng tranh cãi. Nhiều khả năng trong quá khứ, đây hoặc là một tiểu quốc của Phù Nam, một vương quốc với cương vực trải dài từ đồng bằng Nam Bộ đến Phú Khánh cũ, hạ Lào, Campuchia; hoặc cũng có thể là một quốc gia riêng từng tồn tại song song với Phù Nam, Chân Lạp. Thánh địa này khá sầm uất khi nằm trong mạng lưới của con đường thương mại từ Đông sang Tây phát triển khá mạnh vào khoảng thế kỷ 3 và/hoặc thế kỷ 4, nhưng sau đó suy tàn dần khi con đường này dịch chuyển sang vùng biển Malacca từ cuối thế kỷ 5. với các hình vẽ ở được người xưa sử dụng phổ biến kỹ thuật vẽ chìm trong vàng và kỹ thuật gò. Các nét vẽ, nét gò mảnh mai, phóng khoáng, hòa nhập vào nhau tạo ra một bức tranh hoàn chỉnh về một thời kỳ rực rỡ, hưng thịnh. Ngoài những mảnh vàng dát mỏng cắt hình bông hoa hoặc khắc chữ cổ được tìm thấy nhiều trong quần thể di tích này, các nhà nghiên cứu còn gặp những mảnh vàng chạm hình người nhiều đầu, nhiều tay và hình người khỉ. Nhận định bước đầu có thể đây là những nhân vật trong sử thi Ramayana của Ấn Độ như khỉ thần Hanuman, vua quỷ Ravana. Một nghi vấn khác liên quan đến Phật giáo cũng được phát hiện trong một hố thờ chứa đầy tro, đó là tám lá vàng chạm hình voi và rùa xếp ở bốn cạnh và bốn góc cùng một lá vàng chạm hình rắn bảy đầu uốn hình vòng cung. Người ta cho rằng đây có thể là hình tượng rắn bảy đầu bảo vệ di hài Đức Phật. Nhìn tổng thể, đề tài chủ đạo chạm khắc trên các lá vàng bao gồm hình ảnh các thần Siva, Umapavati, Brahma, tu sĩ, nam thần, nữ thần, vũ nữ, người dâng lễ, chiến binh; các chủ đề động vật dưới hình thái vật tổ luôn được tái hiện như sư tử, voi Airavata, lợn rừng, rắn, cá, bò Nandin, dê, chim, ngỗng Hamsa v.v.; các đề tài trang trí cung đình với hình sóng nước, hoa lá uốn lượn tự do, cánh sen kết dải, hoa dây, ốc xoắn, quả cầu, mặt trăng khuyết, văn tự chữ Phạn cổ v.v. Các đề tài đều phản ánh đời sống tinh thần của một trung tâm đô thị tôn giáo thuộc một cộng đồng cư dân cổ trong lịch sử Nam Tây Nguyên và Nam Trung Bộ.
Một hiện vật khác cũng khiến nhiều nhà khoa học bất ngờ: chiếc hộp làm bằng bạc kích thước 18×9 cm chạm hình sư tử lông bờm dài được tìm thấy trong hố thờ ở gò 6A của di tích. Chiếc hộp hình oval dài, trên mặt chạm gò một con sư tử trong tư thế nằm soãi mình và xung quanh có hoa văn trang trí với chủ đề rất lạ mà các nhà khoa học khẳng định chưa từng thấy trong bất cứ một di tích khảo cổ nào ở Việt Nam. Đến nay, người trong giới vẫn chỉ phỏng đoán hiện vật xa lạ này có thể đến từ vùng Lưỡng Hà hoặc Trung Á (vùng văn hóa Kushana thuộc Liên Xô cũ). Cùng nhận định như trên, tiến sĩ khảo cổ học Bùi Chí Hoàng cũng bức xúc: "Tầm vóc và giá trị khoa học của khu di tích Cát Tiên và thời gian đầu tư nghiên cứu nó là chưa tương thích". Bằng cách nào để đọc được những thông điệp của người xưa để lại, để bảo tồn và phát huy tốt những giá trị to lớn khu di sản này, đó là điều được nhiều người quan tâm. Tại cuộc hội thảo về khu di tích khảo cổ học Cát Tiên tổ chức đầu tháng 3 năm 2001, các nhà khoa học đều khẳng định Nhà nước cần đầu tư cho công tác khai quật bởi lẽ ở dưới lòng đất đang còn rất nhiều điều bí ẩn cần được giải mã để có cái nhìn đầy đủ và sâu hơn cho một kết luận thật chính xác về khu thánh địa này, đặc biệt là những chứng cứ đủ thuyết phục về chủ nhân của nó. Tuy nhiên đến thời điểm khai quật lần thứ 8 năm 2006, giới khảo cổ lại tỏ ra thận trọng khi phát ngôn với báo giới về kết quả nghiên cứu cũng như hướng nghiên cứu, khảo sát thánh địa tương lai. Đồng thời họ cũng cho rằng do công tác bảo quản di vật hiện còn nhiều khó khăn, không nên tiếp tục khai quật mà, như ý kiến của tiến sĩ Phạm Quốc Quân Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, trước mắt chỉ nên cố gắng tư liệu hóa một cách cao nhất những gì thu được. Một số hình ảnh hiện trường khai quật lò nung gạch tại ngoại biên khu thánh địa. Ngày 29 tháng 12 năm 2006, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Lâm Đồng cho biết Hội đồng di sản Quốc gia đã thông qua chương trình lập đề án quy hoạch Thánh địa Cát Tiên từ năm 2006 đến năm 2010 với tổng kinh phí đầu tư xây dựng khoảng 137 tỷ đồng. Theo đề án, diện tích quy hoạch dự kiến sẽ rộng 100ha và vùng lõi sẽ nằm tại khu di chỉ xã Quảng Ngãi. Trong đó vùng lõi khu vực 1 rộng 28ha, khu vực 2 rộng 35ha, khu vực 3 rộng 43ha. Đồng thời Hội đồng di sản Quốc gia cũng tiến hành triển khai lập hồ sơ trình Chính phủ đề nghị UNESCO xét công nhận Di tích Cát Tiên là Di tích lịch sử văn hoá thế giới.
Trong một động thái nhằm thực hiện cuộc tổng quảng bá đầu tiên về giá trị bí ẩn của quần thể di tích khảo cổ học nổi tiếng này, tỉnh Lâm Đồng đã cho phép Bảo tàng Lâm Đồng đưa hiện vật khảo cổ của Thánh địa Cát Tiên ra khỏi tỉnh, trưng bày tại Hà Nội. Cuộc quảng bá mang tên "Cổ vật Cát Tiên-dấu ấn của một di tích huyền thoại" được triển lãm trong vòng 8 tháng từ ngày 28 tháng 8 năm 2007 đến hết tháng 4 năm 2008 tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
