✨Thạch Ốc Thanh Củng
Thạch Ốc Thanh Củng (zh. 石屋清珙 Shiwu Qinggong, 1272-1352) là một vị Thiền sư Trung Quốc đời Nguyên, thuộc phái Dương Kỳ và phái Phá Am của tông Lâm Tế. Sư được biết đến là một nhà ẩn sĩ và thi sĩ nổi tiếng của Trung Quốc với nhiều bài thơ còn được lưu truyền đến ngày nay. Dòng Thiền Lâm Tế của Sư được truyền vào bán đảo Triều Tiên thông qua hai đệ tử là Bạch Vân Cảnh Nhàn và Thái Cổ Phổ Ngu.
Cơ duyên và hành trạng
Sư họ Văn, sinh vào năm Hàm Thuần thứ 8 (1275) thời Nam Tống, quê ở Thường Thục, Giang Tô, mẹ tên là Lưu Thị. Lúc mẹ sinh ra Sư, có ánh sáng lạ xuất hiện. Năm 20 tuổi, sư theo Pháp sư Duy Vĩnh ở Sùng Phước tự xuất gia. Đến năm 23 tuổi, sư thọ giới Cụ túc.
Dù đã ở hội của Thiền sư Cao Phong hơn ba năm nhưng chỉ đạt được chút ít sở đắc nên Sư chán nản đến bái tạ để đi nơi khác tham học. Thiền sư Cao Phong bèn chỉ sư đến tham học với vị huynh đệ đồng thờ Thiền sư Tuyết Nham Tổ Khâm làm thầy là Thiền sư Cập Am Tông Tín (zh. 及庵宗信).
Đắc pháp nơi Cập Am
Băng qua sông Trường Giang, Sư tới được chổ của Thiền sư Cập Am Tông Tín, lúc này đang trụ tại chùa Tây Phong gần Kiến Dương. Cập Am hỏi Sư đã được dạy những gì, Sư nêu lại câu thoại "Vạn pháp quy nhất". Cập Am hỏi ý nghĩa của câu thoại này là gì nhưng sư im lặng. Cập Am nói: "Đó chỉ là tử cú (câu chết). Ông đã nhặt được thứ rác rưởi đó ở đâu vậy?" Sư đảnh lễ và xin Cập Am chỉ dạy. Cập Am dạy Sư tham câu thoại "Nơi chư Phật trụ, đừng dừng lại; Nơi chư Phật không trụ, hãy mau đi qua." Sư không hiểu nhưng vẫn quyết định ở lại với Cập Am.
Sau bảy năm sống ở Phúc Nguyên tự, Sư từ chức trụ trì và quay trở lại ẩn cư tại Thiên Hồ sơn. Tại đây Sư sống một cuộc đời của người ẩn sĩ xa lánh thế tục, không màng danh lợi vật chất. Dù thiếu thốn về vật chất nhưng Sư không bao giờ nhờ cậy sự giúp đỡ của đàn việt, nếu không có thức ăn thì Sư uống tạm nước suối cho qua bữa. Sư tính tình hiền lành, thương người, thương vật. Sư có sáng tác nhiều bài "sơn thi" mang đậm tính Thiền học, nhân văn, có ý nghĩ cảnh tỉnh người đời. Hoàng hậu Nhà Nguyên vì quý trọng đức hạnh của Sư nên ban tặng cho sư một tấm y ca-sa kim lan, các đệ tử của Sư rất tự hào về điều đó nhưng Sư lại tỏ ra thờ ơ.
Tháng 7 năm thứ 12 (1352) niên hiệu Chí Chính đời Nguyên, vào buổi sáng, sau khi nói lời từ biệt với các môn đệ, Sư thị tịch, thọ 81 tuổi. Vua Cao Ly ban thụy là Phật Từ Huệ Chiếu Thiền sư.
Một bài Sơn Thi khác mà Sư dùng đối tượng bên ngoài (cảnh) để thể hiện triết lý vô tâm của Thiền tông:
:Hán văn
:松 下 雙 扉 泠 不 扃
:一 龕 金 像 照 青 燈
:眠 雲 野 鹿 驚 回 夢
:落 澗 獼 猴 墜 折 藤
:得 意 看 山 山 轉 好
:無 心 合 道 道 相 應
:多 時 不 向 門 前 去
:蘚 葉 苔 花 積 幾 層
:Phiên âm
:Tùng hạ song phi lãnh bất quynh
:Nhất kham kim tượng chiếu thanh đăng
:Miên vân dã lộc kinh hồi mộng
:Lạc giản mi hầu truỵ chiết đằng
:Đắc ý khán sơn sơn chuyển hảo
:Vô tâm hợp đạo đạo tương ưng
:Đa thời bất hướng môn tiền khứ
:Tiển diệp đài hoa tích kỷ tầng.
:Dịch nghĩa
:Dưới tòng hai cửa lạnh, không đóng
:Tượng vàng trong khám chiếu thanh đăng
:Mây và nai rừng kinh tỉnh mộng
:Dưới suối bầy khỉ rơi, bám cành
:Đắc ý, nhìn núi, núi chuyển tốt
:Vô tâm hợp đạo, đạo tương ưng
:Nhiều khi không đi ra cửa trước
:Hoa lá, rong rêu đã mấy từng.

6. [[Đại Cung môn 7. Tả vu và Hữu vu 8. Điện