✨Marie Curie
Maria Salomea Skłodowska-Curie (; ; 7 tháng 11 năm 1867 – 4 tháng 7 năm 1934), thường được biết đến với tên gọi đơn giản là Marie Curie ( , ), là một nhà vật lý và nhà hóa học người Pháp gốc Ba Lan, chủ nhân của nghiên cứu tiên phong về phóng xạ. Bà là người phụ nữ đầu tiên đoạt giải Nobel, người đầu tiên hai lần đoạt giải Nobel và là người duy nhất giành giải Nobel ở hai lĩnh vực khoa học. Chồng bà, Pierre Curie là người đồng đoạt giải Nobel đầu tiên của bà, qua đó giúp họ trở thành cặp vợ chồng đầu tiên đoạt giải Nobel và khởi xướng di sản gia đình Curie của năm giải Nobel. Năm 1906, bà là người phụ nữ đầu tiên trở thành giáo sư tại Đại học Paris. Năm 1906, Pierre Curie qua đời trong một vụ tai nạn do bị xe ngựa tông phải trên đường phố Paris. Marie đoạt giải Nobel Hóa học năm 1911 nhờ phát hiện ra các nguyên tố poloni và radi, sử dụng những kỹ thuật mà bà phát minh ra để tách được đồng vị phóng xạ. Dưới sự chỉ đạo của bà, những nghiên cứu đầu tiên trên thế giới đã được tiến hành nhằm điều trị các khối u bằng sử dụng đồng vị phóng xạ. Bà thành lập Viện Curie ở Paris năm 1920, và Viện Curie ở Warszawa năm 1932; cả hai hiện vẫn là những trung tâm nghiên cứu y học lớn. Trong Thế chiến thứ nhất, bà đã phát triển những thiết bị chụp X-quang di động để cung cấp dịch vụ X-quang cho bệnh viện dã chiến.
Mặc dù là một công dân Pháp, Marie Skłodowska Curie (sử dụng cả hai họ) không bao giờ đánh mất ý thức về bản sắc Ba Lan của mình. Bà dạy các con gái tiếng Ba Lan và đưa chúng đến thăm Ba Lan. Ngoài giải Nobel, bà còn nhận được nhiều giải thưởng và tri ân khác; năm 1995, bà trở thành người phụ nữ đầu tiên được chôn cất vì công lao của chính mình tại ở Paris,
Ở cả bên nội và bên ngoại, gia đình đã mất tài sản và của cải do sự tham gia của người yêu nước vào các cuộc nổi dậy của quốc gia Ba Lan nhằm khôi phục nền độc lập của Ba Lan (gần nhất lúc ấy là Khởi nghĩa Tháng Giêng giai đoạn 1863–65). về sau trở thành nhân vật hàng đầu trong nền văn học Ba Lan. bất chấp không muốn theo nghi lễ tôn giáo.
Năm 1900, Curie trở thành nữ giảng viên đầu tiên của École Normale Supérieure còn chồng bà trở thành giáo viên ở Đại học Paris.
Curie và chồng từ chối đến Stockholm để trực tiếp nhận giải thưởng; họ quá bận rộn với công việc của mình, còn Pierre Curie (ghét những buổi lễ trước công chúng) ngày càng ốm yếu.
Bất chấp danh tiếng của Curie với tư cách nhà khoa học làm việc cho Pháp, thái độ của dư luận có xu hướng bài ngoại – chuyện tương tự đã dẫn đến vụ Dreyfus – còn làm dấy lên suy đoán sai lệch rằng Curie là người Do Thái.
Bà là người đầu tiên đoạt hoặc đồng đoạt giải Nobel, và chỉ có mỗi bà với Linus Pauling là những người đoạt giải Nobel ở hai lĩnh vực. Một phái đoàn gồm những tri thức Ba Lan nổi tiếng (đứng đầu là tiểu thuyết gia Henryk Sienkiewicz) đã khuyến khích bà trở lại Ba Lan và tiếp tục nghiên cứu của mình ở quê hương. Bà đến thăm Ba Lan vào năm 1913 và được chào đón ở Warszawa nhưng chuyến thăm gần như bị chính quyền Nga phớt lờ. Sự phát triển của viện bị gián đoạn do chiến tranh sắp nổ ra, vì hầu hết các nhà nghiên cứu đều bị bắt nhập ngũ vào Quân đội Pháp, sau đấy viện tái hoạt động hoàn toàn vào năm 1919. Bà thấy cần có các trung tâm X-quang dã chiến gần tiền tuyến để hỗ trợ các bác sĩ phẫu thuật trên chiến trường, Sau khi nghiên cứu nhanh về X quang, giải phẫu và cơ khí ô tô, bà đã mua thiết bị X-quang, phương tiện vận chuyển, máy phát điện phụ trợ và phát triển các thiết bị chụp X quang di động, được biết đến phổ biến với tên gọi petites Curies ("Tiểu Curie"). Bà có ghế trong ủy ban cho đến năm 1934 và đóng góp phối hợp khoa học của Hội Quốc Liên với các nhà nghiên cứu lỗi lạc khác như Albert Einstein, Hendrik Lorentz và Henri Bergson. Năm 1923, bà viết cuốn tiểu sử về người chồng quá cố của mình, có nhan đề là Pierre Curie. Năm 1931, Curie được trao giải Cameron về Trị liệu của Đại học Edinburgh.
Qua đời
nhỏ|upright|Bức tượng Curie năm 1935, đối diện Viện Radi ở [[Warszawa]] Curie thăm Ba Lan lần cuối vào đầu năm 1934. và suy đoán rằng căn bệnh của bà có nhiều khả năng là do Curie đã sử dụng phương pháp chụp X quang trong Thế chiến I.
Bà được chôn cất tại nghĩa trang ở Sceaux, cùng với chồng Pierre. Bà trở thành người phụ nữ thứ hai được an táng tại Panthéon (sau Sophie Berthelot) và là người phụ nữ đầu tiên được vinh danh bằng cách an táng tại Panthéon nhờ công lao của chính mình. Ngay cả sách dạy nấu ăn của Curie cũng có tính phóng xạ cao. và người duy nhất đoạt giải trong nhiều môn khoa học.
- Huy chương Elliott Cresson (1909)
- Năm 2007, một ga tàu điện ngầm ở Paris được đổi tên để vinh danh cả hai vợ chồng Curie.
- Huy chương và giải Marie Curie-Sklodowska, một giải thưởng thường niên do Viện Vật lý có trụ sở tại Luân Đôn trao tặng cho những đóng góp xuất sắc cho giáo dục vật lý, được đặt tên để vinh danh bà.
Nhiều cuốn tiểu sử được viết riêng cho bà, bao gồm:
- Ève Curie (con gái của Marie Curie), Madame Curie, 1938.
- Françoise Giroud, Marie Curie: A Life, 1987.
- Barbara Goldsmith, Obsessive Genius: The Inner World of Marie Curie, 2005.
- 2016: Marie Curie: The Courage of Knowledge, một bộ phim điện ảnh hợp tác sản xuất ở Châu Âu của Marie Noëlle có sự diễn xuất của Karolina Gruszka.
- 2019: Radioactive, một bộ phim điện ảnh của Anh của Marjane Satrapi có sự diễn xuất của Rosamund Pike.
Curie là chủ đề của vở kịch False Assumptions (2013) của Lawrence Aronovitch, trong đó hồn ma của ba nhà khoa học nữ khác quan sát các sự kiện trong cuộc đời bà. Curie còn được Susan Marie Frontczak thể hiện trong vở kịch Manya: The Living History of Marie Curie, một chương trình một phụ nữ diễn vào năm 2014, đã được công diễn ở 30 tiểu bang của Hoa Kỳ và 9 quốc gia.
