✨Mã Hàn
Mã Hàn từng là một liên minh lỏng lẻo của các tiểu quốc bộ tộc tồn tại từ khoảng thế kỷ 1 TCN đến thế kỷ to 3 CN tại nam bộ bán đảo Triều Tiên thuộc các vùng Chungcheong và Jeolla. Phát sinh từ sự hợp nhất của những người Cổ Triều Tiên di cư và liên minh Thìn Quốc. Mã Hàn là một trong Tam Hàn, cùng với Biện Hàn và Thìn Hàn. Bách Tế ban đầu chỉ là một tiểu quốc bộ lạc thành viên, nhưng về sau đã nổi lên và trở thành một trong Tam Quốc Triều Tiên. ngày nay vào năm 108 TCN. Điều này được mô tả trong biên niên sử Tam quốc chí của Trung Quốc và sau dó khá lâu là Tam quốc di sự và Tam quốc sử ký của Triều Tiên.
Trong thế kỷ 1 CN, tiểu quốc Nguyệt Chi/Mộc chi (月支/目支, Wolji/Mokji) được hình thành và lãnh đạo liên minh Mã Hàn, đã thất bại trong cuộc chiến với Bách Tế, một thành viên khác của Mã Hàn, và mất toàn bộ lưu vực sông Hán ngày nay. Nhưng Tam quốc chí chép rằng Mã Hàn thất thủ trong các cuộc chiến với Lạc Lãng quận và Đới Phương quận năm 246 CN. Dưới áp lực liên tiếp từ Bách Tế, chỉ 20 tiểu quốc bộ lạc của Mã Hàn còn tòn tại cho đến cuối thế kỷ thứ 3. Bách Tế cuối cùng đã hợp chinh phục tất các các tiểu quốc này vào thế kỷ thứ 5, phát triển thành một trong Tam Quốc Triều Tiên, cùng với Tân La và Cao Câu Ly.
Chính trị
Các vị thủ lĩnh Mã Hàn thỉnh thoảng gọi mình là "Thìn Quốc vương," để đề cập đến Thìn Quốc trước đó và khẳng định có danh nghĩa trên khắp Tam Hàn. Một sự thịnh vượng trong các hiện vật đồ đồng và những hành hóa dược sản xuất chứng minh rằng Mã Hàn chắc chắn là nơi phát triển sớm nhất trong Tam Hàn. Vào thời đỉnh cao, Mã Hàn bao phủ phần lớn lưu vực sông Hán và các khu vực Gyeonggi, Chungcheong, và Jeolla, mặc dù thực thể chính trị mạnh nhất là Mục Chi Quốc (목지국, 目支國, Mokji) tại Cheonan, Chungcheong ngày nay.
Di sản
Các sử gia Cao Ly xác định Mã Hàn, Thìn Hàn và Biện Hàn tương ứng với Cao Câu Ly, Tân La và Bách Tế, với các tư liệu như Tam quốc sử ký, Tam quốc di sự và đế vương vận kỉ. Như vậy, thuật ngữ Tam Hàn đôi khi đồng nghĩa với Tam Quốc. Quan điểm lịch sử này được Choe Chiwon (Thôi Trí Viễn) đưa ra, ông là một nhà Nho học và sử gia nổi tiếng vào cuối thời Tân La. Ngoại trừ vị trí địa lý của Mã Hàn, "Tống sử" xác định nguồn gốc dân tộc của Định An Quốc, một quốc gia kế tục của vương quốc Bột Hải, là người Mã Hàn.
Vào cuối thời Triều Tiên, học giả Thực học Han Baek-gyeom đã nhấn mạnh mối liên hệ giữa Mã Hàn và Bách Tế trên phương diện địa lý. Tuy nhiên điều này đã bị chi trích.
Quân vương Mã Hàn
Tiểu quốc bộ lạc
Theo Tam quốc chí, Mã Hàn gồm có 54 tiểu quốc bộ lạc
- Sangoe (상외국, 桑外國, Tang Ngoại Quốc), nay thuộc Hwaseong.
- Soseoksak (소석삭국, 小石索國, Tiểu Thạch Sách Quốc), nay thuộc đảo Gyodong.
- Sowigeon (소위건국, 素謂乾國, Tố Vị Can Quốc), nay thuộc Boryeong.
- Songnobulsa (속로불사국, 速盧不斯國, Tốc Lô Bất Tư Quốc), nay thuộc Gimpo.
- Sinbunhwal (신분활국, 臣濆活國, Thần Phần Hoạt Quốc), nay thuộc Anseong hay Gapyeong.
- Sinsodo (신소도국, 臣蘇塗國, Thần Tô Đồ Quốc), nay thuộc Taean.
- Sinunsin (신운신국, 臣雲新國, Thần Vân Tân Quốc), nay thuộc Cheonan.
- Sinheun (신흔국, 臣釁國, Thần Hấn Quốc), nay thuộc Daejeon hay Asan.
- Arim (아림국, 兒林國, Nhi Lâm Quốc), nay thuộc Seocheon hay Yesan.
- Yeoraebiri (여래비리국, 如來卑離國, Như Lai Ti Li Quốc), nay thuộc Iksan.
- Yeomno (염로국, 冉路國, Nhiễm Lộ Quốc), nay thuộc Asan.
- Uhyumotak (우휴모탁국, 優休牟涿國, Ưu Hưu Mưu Trác Quốc), nay thuộc Bucheon.
- Wonyang (원양국, 爰襄國, Viên Tương Quốc), nay thuộc Hwaseong hay Paju.
- Wonji (원지국, 爰池國, Viên Trì Quốc), nay thuộc Yeosu.
- Illan (일난국, 一難國, Nhất Nan Quốc)
- Illi (일리국, 一離國, Nhất Li Quốc)
- Irhwa (일화국, 日華國, Nhật Hoa Quốc)
- Imsoban (임소반국, 臨素半國, Lâm Tố Bán Quốc), nay thuộc Gunsan.
- Jarimoro (자리모로국, 咨離牟盧國, Tư Li Mưu Lô Quốc), nay thuộc Icheon.
- Jiban (지반국, 支半國, Chi Bán Quốc), nay thuộc Buan.
- Jichim (지침국, 支侵國, Chi Xâm Quốc), nay thuộc Eumseong.
- Cheomno (첩로국, 捷盧國, Thiệp Lô Quốc), nay thuộc Jeongeup.
- Chori (초리국, 楚離國, Sở Li Quốc), nay thuộc Goheung.
- Chosandobiri (초산도비리국, 楚山塗卑離國, Sổ San Đồ Ti Li Quốc), nay thuộc Jindo.
- Chiriguk (치리국국, 致利鞠國, Trí Lợi Cúc Quốc), nay thuộc Seocheon.
