✨I-8 (tàu ngầm Nhật)
I-8 là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em I-7 là những tàu ngầm Nhật Bản lớn nhất được hoàn tất trước khi nổ ra xung đột tại Thái Bình Dương. Nhập biên chế năm 1937, nó đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, hỗ trợ cho cuộc tấn công Trân Châu Cảng, càn quét tàu bè tại Ấn Độ Dương, và tham gia các chiến dịch Guadalcanal và Okinawa. Vào năm 1943, I-8 được huy động vào nhiệm vụ Yanagi, hoàn tất một chuyến đi trao đổi kỹ thuật đến lãnh thổ Pháp bị Đức chiếm đóng và quay trở về Nhật Bản, trở thành tàu ngầm duy nhất thực hiện chuyến đi khứ hồi giữa Nhật Bản và Châu Âu trong Thế Chiến II. Sau khi liên quan đến nhiều tội ác chiến tranh trong năm 1944, I-8 bị các tàu khu trục Hải quân Hoa Kỳ đánh chìm trong biển Philippine vào ngày 31 tháng 3, 1945.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế
Junsen III là sự tiếp nối của việc phát triển tàu ngầm sân bay, bắt đầu bằng phân lớp Junsen I Cải tiến với chiếc I-5 có khả năng vận hành một thủy phi cơ trinh sát, và sau đó là phân lớp Junsen II với chiếc I-6 khi được trang bị ngay từ đầu một hầm chứa cùng một máy phóng máy bay. Lớp Junsen III tiếp nối sau đó, bao gồm I-7 và I-8, cũng có các tính năng tương tự, với ý định sẽ hoạt động trong vai trò soái hạm của hải đội tàu ngầm. Hải quân Nhật muốn kết hợp những ưu điểm của các phân lớp Junsen trước đây với kiểu tàu ngầm Kaidai V. Junsen III là những tàu ngầm sau cùng có các thiết bị máy bay đặt sau tháp chỉ huy; mọi tàu ngầm sân bay Nhật Bản tiếp theo đều bố trí hầm chứa cùng máy phóng ở sàn phía trước.
Junsen III có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 7, 1936,
Vào ngày 15 tháng 11, 1940, Hải đội Tàu ngầm 3 được điều động sang Đệ Lục Hạm đội, trong thành phần Hạm đội Liên hợp. rồi phối thục trực tiếp cùng Hải đội Tàu ngầm 8 từ ngày 25 tháng 5,
I-8 kết thúc chuyến tuần tra và về đến Penang vào ngày 8 Những thuộc cấp dưới quyền Ariizumi có liên can đến các vụ thảm sát tù binh của I-8 đã bị truy tố và chịu án tù vì đã phạm tội ác chiến tranh.
1945
Chiến dịch Okinawa
Cho dù đã được cải biến để mang theo ngư lôi Kaiten, I-8 đã không mang theo quả nào khi nó cùng các tàu ngầm Ro-41, Ro-49 và Ro-56 khởi hành từ Saeki, Hiroshima vào ngày 18 tháng 3, 1945 để hoạt động tại khu vực Nam Okinawa. Tuy nhiên chiếc tàu ngầm phải quay trở lại Saeki ngay vào ngày hôm sau để sửa chữa rồi khởi hành trở lại vào ngày 20 tháng 3 để bắt đầu chuyến tuần tra. Chiến dịch Okinawa bắt đầu với các hoạt động chuẩn bị vào ngày 26 tháng 3, khi lực lượng Hoa Kỳ đổ bộ lên quần đảo Kerama, và đến 18 giờ 05 phút ngày 28 tháng 3, I-8 báo cáo phát hiện hai tàu vận tải và bốn tàu khu trục ở vị trí cách Naha . Tuy nhiên sau đó nó hoàn toàn mất liên lạc với căn cứ.
Bị mất
Vào ngày 31 tháng 3, đang khi hộ tống một đội đặc nhiệm tại vùng biển ngoài khơi quần đảo Kerama, tàu khu trục Hoa Kỳ phát hiện một mục tiêu trên mặt biển qua radar, nên tiếp cận để xác minh. I-8 lặn khẩn cấp để né tránh, nhưng Stockton lại dò được mục tiêu qua sonar. Trong suốt bốn giờ tiếp theo, Stockton tiêu phí toàn bộ số mìn sâu nó mang theo qua bảy lượt tấn công nhắm vào I-8. Khi tàu khu trục đi đến nơi để tăng cường cho Stockton, chiếc tàu ngầm trồi lên mặt biển, nhưng nó lại lặn xuống ngay lập tức. Morrison thả một lượt mìn sâu tấn công, buộc I-8 phải trồi lên mặt cách chiếc tàu khu trục . Sau khoảng 30 phút đối đầu bằng hải pháo, I-8 lật úp và đắm trong biển Philippine tại tọa độ . Morrison vớt được một hạ sĩ quan đã bất tỉnh, thành viên thủy thủ đoàn duy nhất của I-8 sống sót.
Đến ngày 10 tháng 4, Hải quân Nhật Bản công bố I-8 có thể đã bị mất tại khu vực Oiknawa với tổn thất toàn bộ thành viên thủy thủ đoàn trên tàu. Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 8, 1945.
