✨Hư Vân (Thiền sư)
Hư Vân (zh. 虛雲; Xūyún; 17 tháng 8 năm 1840?−13 tháng 10 năm 1959), còn có hiệu là Đức Thanh Diễn Triệt, là một Thiền sư Trung Quốc thời cận đại. Sư là vị Thiền sư có ảnh hưởng nhất trong thế kỷ 19 và thế kỷ 20 tại Trung Quốc và có vai trò rất lớn trong việc phục hưng Thiền tông và Phật Giáo Trung Quốc. Cuộc đời sư khôi phục và nối tiếp pháp mạch của Ngũ Gia Thất tông - Thiền tông.
Thân thế
Thiền sư Hư Vân tên khai sinh là Tiêu Trai, quê ở huyện Tương Lương, tỉnh Hồ Nam, sinh ra tại tỉnh Phúc Kiến. Sư thuộc dòng dõi hậu duệ vua Lương Vũ Đế, họ gốc ở Lan Lăng. Cha là Tiêu Ngọc Đường, làm quan ở Phúc Kiến. Mẹ là Nhan Thị, bà mất khi vừa mới sinh sư xong.
Cơ duyên xuất gia và tu hành
Năm 11 tuổi, bà nội có ý muốn cưới hai cô vợ cho sư để gia đình có người nối dõi. Cùng năm, bà nội sư mất và tại đám tang này có mời các vị sư ở chùa đến tụng kinh cầu siêu, nhờ đó mà sư biết đến Phật Pháp lần đầu tiên. Không lâu sau đó, sư bắt đầu nghiên cứu Kinh Phật và hành hương đến núi Hành Sơn - một trong những danh lam Phật Giáo tại Trung Quốc.
Năm 25 tuổi, cha sư qua đời, người mẹ kế và hai người vợ cũ của sư cũng vào chùa xuất gia làm ni. Từ đó sư không cần lẫn trốn cha như trước nữa. Sư khá đau buồn về sự ra đi của cha nhưng đã gạt tình riêng qua một bên để tiếp tục con đường tu tập khổ hạnh.
Mặc dù thân đang mang bệnh nhưng sư vẫn vội đến chùa Cao Mân để kịp kỳ Thiền Thất. Tại đây, sư gặp Thiền sư Nguyệt Lãng và được thỉnh làm thiện tri thức khai thị cho đại chúng trong thời gian diễn ra Thiền thất. Sư bèn khéo léo từ chối mà không tiết lộ bệnh tình của mình đồng thời bày tỏ mong muốn được cùng chúng đả Thiền Thất tiến tu. Quy củ của Chùa Cao Mân rất nghiêm khắc, theo thông lệ của chùa, nếu ai được tăng chúng đề cử làm chức sự mà không nhận chức sẽ phải chịu phạt đánh Thiền-bản. Vì bị phạt nên bệnh tình của sư càng nặng thêm.
Năm 68 tuổi, sư vân du qua Thái Lan. Trong thời gian ở đây có lần sư nhập định liên tục 9 ngày, gây xôn xao cả thủ đô Bangkok. Sau khi quay trở lại Trung Quốc, sư đến trụ tại núi Kê Túc, Vân Nam (khoảng 18 năm) và khôi phục lại các di tích của Quy Ngưỡng tông. Tại đây sư đã có nhiều hoạt động đóng góp cho Phật giáo và xã hội như thuyết phục vị tướng quân tên Lí Căn Nguyên chấm dứt việc đuổi tăng phá chùa. Ngoài ra, sư cũng chủ động sang Tây tạng đàm phán hòa bình để ngăn chặn chiến tranh giữa Trung quốc và Tây tạng. Sư cũng dùng Phật Pháp để khuyên dụ bọn trộm cướp ở Vân Nam trở về con đường lương thiện.
Những năm tháng cuối đời, sư đến hoằng pháp và trùng tu lại Chân Như Thiền tự - tổ đình của Tào Động tông (do Thiền sư Vân Cư Đạo Ưng sáng lập). nhỏ|Tháp Hải Hội - nơi an trí xá lợi của Thiền sư Hư Vân Đến 1 giờ 45 phút ngày 13 tháng 10 năm 1959, sư nằm tư thế cát tường an nhiên thị tịch, thọ 120 tuổi, hạ lạp 101 năm. Chúng môn đệ ngậm ngùi tổ chức tang lễ và cử hành lễ trà tỳ, thu được hơn 100 viên xá lợi tinh khiết, đủ năm màu, lớn nhỏ đủ loại. Đây là minh chứng cho cuộc đời tu tập và chứng ngộ cũng như những công hạnh diệu kỳ của sư. Đại chúng chia xá lợi sư ra thành nhiều phần và xây tháp thờ ở các chùa khác nhau. Trong đó, một phần xá lợi an trí tại tháp Hải Hội núi Vân Cư.
Trong suốt cuộc đời mình, Thiền sư Hư Vân đã thể hiện nhiều đức tính đáng khâm phục như từ, bi, hỷ, xả, hiếu, vô úy, bất phóng dật, kham nhẫn, giới luật thanh tịnh... Tổng cộng, Hư Vân trùng tu hơn 80 ngôi chùa lớn, nhỏ ở khắp Trung Quốc, mỗi nơi sau khi hoàn thành sư đều giao cho một vị sư nào đó có đức hạnh làm trụ trì, rồi lại đến nơi khác tiếp tục công cuộc trùng tu chùa chiền, hoằng dương Phật pháp. Bên cạnh việc truyền bá Thiền tông, sư cũng dạy người chân thật niệm Phật.
Tác phẩm
Những tác phẩm do sư sáng tác gồm có: Lăng Nghiêm Kinh Huyền Yếu, Pháp Hoa Kinh Lược Sớ, Di Giáo Kinh Chú Thích, Viên Giác Kinh Huyền Nghĩa, Tâm Kinh Giải... nhưng đã bị Hồng quân Trung Quốc đốt phá, lấy đi hết trong vụ cướp chùa Vân Môn năm 1951 dưới thời Mao Trạch Đông. Các tác phẩm còn lại cho đến nay là: Hư Vân Thiền Sư Pháp Ngữ, Khai Thị Thiền Thất, Vấn Thư, Thi Ca...
