✨Giải âm
Giải âm (chữ Hán: 解音) là một loại phương pháp dịch những tác phẩm viết bằng Hán văn sang tiếng Việt văn học. Những bản dịch này có thể đa dạng về quy mô, từ những chú giải ngắn giải thích từng từ, cụm từ riêng lẻ đến những bản dịch toàn vẹn, được chuyển thể hoàn chỉnh cho độc giả Việt Nam. Các tác phẩm được giải âm bao gồm cả kinh điển Trung Hoa, như Luận ngữ (Luận ngữ uớc giải; 論語約解), lẫn văn học Hán văn bản địa của Việt Nam, chẳng hạn Truyền kỳ mạn lục ([https://lib.nomfoundation.org/collection/1/volume/77/ Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú]; 新編傳奇漫錄增補解音集註).
Từ nguyên học
Từ giải âm (解音) có nghĩa là 'giải thích âm đọc'; là thuật ngữ chỉ việc dịch văn bản Hán văn sang tiếng Việt văn học với đặc trưng bảo lưu cú pháp gốc của nguyên tác Hán văn, đồng thời thay thế từng chữ Hán bằng từ/cụm từ tương đương trong tiếng Việt. nhỏ|Bìa sách Thi kinh giải âm (詩經解音), bản in năm 1714 niên hiệu [[Lê Dụ Tông|Vĩnh Thịnh đời Lê trung hưng.]] Âm (音) là cách rút gọn của quốc âm (國音) – thuật ngữ dùng để chỉ tiếng Việt trong các văn bản Hán Nôm thời kỳ phong kiến. Quốc ngữ (國語) cũng được dùng để chỉ tiếng Việt, nhưng dưới thời Pháp thuộc, nghĩa này chuyển sang chỉ bảng chữ Quốc ngữ (chữ Latinh) thay vì chữ Nôm.
Các bản dịch văn bản có thể được gọi bằng nhiều thuật ngữ, bao gồm:
- giải âm (解音)
- diễn âm (演音)
- ước giải (約解)
Một thuật ngữ liên quan khác, giải nghĩa (解義), có nghĩa đen là 'giải thích ý nghĩa', chỉ các bản dịch ưu tiên truyền đạt nội dung văn bản thay vì tuân thủ trật tự từ gốc. Cách tiếp cận này nhấn mạnh vào ý nghĩa ngữ nghĩa của nguyên văn.
- giải nghĩa (解義)
- diễn nghĩa (演義)
- thích nghĩa (釋義)
Lịch sử
Văn bản song ngữ Việt Nam cổ còn tồn tại sớm nhất là Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh (佛說大報父母恩重經), có niên đại thế kỷ XV. Văn bản này bao gồm bản dịch tiếng Việt cổ đặt cạnh nguyên tác Hán văn. Bản dịch tiếng Việt sử dụng từ vựng cổ và các đặc điểm ngôn ngữ đặc trưng của giai đoạn này, cung cấp góc nhìn quý giá về sự phát triển của tiếng Việt thời kỳ đó.
Một tác phẩm dịch thuật đáng chú ý khác là Quốc ngữ thi nghĩa (國語詩義; 1396) của Hồ Quý Ly (胡季犛; 1336–1407), bản dịch tiếng Việt của Kinh Thi (詩經). Tác phẩm này đã thất truyền trong thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư.
Trích đoạn về tác phẩm của Hồ Quý Ly trong Đại Việt sử ký toàn thư (大越史記全書):
Các tác phẩm tiếp tục được dịch sang tiếng Việt xuyên suốt triều Nguyễn, với những ví dụ tiêu biểu như:
- [https://lib.nomfoundation.org/collection/1/volume/1175/ Thượng dụ huấn điều sao bản giải âm] (上諭訓條抄本解音; 1834) - Bản giải âm của Huấn địch thập điều (訓迪十條), mười điều giáo huấn đạo đức và kỷ cương do Hoàng đế Minh Mạng (明命).
- Chư kinh diễn âm (諸經演音; 1900) - Bản diễn âm dịch một số kinh Phật như Phật thuyết Kinh A Di Đà (佛說阿彌陀經), Kinh Nhân Quả (因果經), v.v.
Lời tựa của Chu dịch quốc âm ca quyết (周易國音歌訣; 1815) viết rằng,
Lời tựa của Tứ thư ước giải (四書約解) do Lê Quý Đôn (黎貴惇) soạn cũng viết rằng, ngôn ngữ nói của Việt Nam và Trung Hoa khác biệt nên việc dịch thuật là cần thiết: nhỏ|Một trang từ quyển một của sách Lễ ký đại toàn tiết yếu diễn nghĩa 禮記大全節要演義.
Ví dụ
Ví dụ về chú giải bình dân đơn giản có thể tìm thấy trong Tam thiên tự giải âm (三千字解音). Trong văn bản này, các chữ Hán được sắp xếp thành câu thơ bốn chữ, với từ tương đương bằng chữ Nôm được chú thích bằng cỡ chữ nhỏ hơn bên cạnh.Để so sánh, các bản dịch toàn vẹn như bản dịch trong Lễ ký đại toàn tiết yếu diễn nghĩa (禮記大全節要演義), một bản dịch tiếng Việt của Lễ Ký (禮記),Trong ví dụ này, thuật ngữ Hán văn 寡人 (từ khiêm xưng của 'ta'; nghĩa đen: 'người có ít [đức]') được dịch sang tiếng Việt là 几𠃝德 (kẻ ít đức). Phần còn lại của câu được dịch bằng từ tương đương. Câu Hán văn viết: '寡人聞之' ('Quả nhân văn chi' – 'Ta nghe điều đó'), trong khi câu tiếng Việt viết: '几𠃝德尼𠻵㗂蒂' ('Kẻ ít đức này mắng tiếng đấy' – 'Quả nhân này nghe được tiếng đấy'). nhỏ|Một bản dịch hiện đại của Luận ngữ từ Luân ngữ loại ngữ (1927). Các từ chưng và thửa vẫn có thể thấy được dùng để dịch các từ 之 và 其. Cũng có một câu nổi tiếng từ Hiếu Kinh (孝經):
Chưng
Chưng (蒸) là một trợ từ cổ tiếng Việt (trong các bản dịch tiếng Việt), thường được dùng để dịch các từ Hán văn như: 夫 (phù), 之 (chi), 於 (ư), 諸 (chư), v.v. Chưng, ban đầu được dùng như đại từ, đã phát triển thêm chức năng do quá trình dịch giải kinh điển Hán văn.
Washizawa đã liệt kê các nghĩa của trợ từ chưng như sau:
Giới từ
Trợ từ mở đầu câu
Chữ này dùng cho ngữ khí, cũng có lúc dịch là 'ôi', 'kia', 'này'. Chữ phù 夫 cũng có nghĩa khác như 'cái ấy' hoặc 'vả lại'.
Thửa
Thửa (所) là một trợ từ cổ tiếng Việt được dùng để dịch các từ Hán văn như: 其 (kỳ), 所 (sở), 厥 (quyết), v.v.
Chỉ định từ
Như chữ 'the reason' trong tiếng Anh. Nghĩa này dùng tương tự chữ cái trong tiếng Việt hiện đại.
Đại từ
Ví dụ này nói về lời của ngươi.
Thêm một ví dụ từ Kinh Thi sử dụng 厥 quyết:
Danh hóa từ
Nghĩa này dùng tương tự chữ sự hay điều trong tiếng Việt hiện đại. Như 'Những điều vui mà chúng mày chìm đắm.'
Nơi
Các dịch thuật của hư từ
Chữ Nôm chưa được tiêu chuẩn hoá thì mấy hư từ ấy có nhiều dạng. Ví dụ chữ sao có thể viết là 牢, 𡫡, 𫳵, v.v.
Các văn bản giải âm tiêu biểu
- Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa (指南玉音解義): Từ điển song ngữ cổ nhất còn tồn tại, có hai lời tựa bằng cả tiếng Việt và Hán văn.
- Thi kinh giải âm (詩經解音): Bản giải âm Kinh Thi (詩經).
- Thi kinh đại toàn tiết yếu diễn nghĩa (詩經大全節要演義): Bản diễn nghĩa Kinh Thi (詩經).
- Lễ ký đại toàn tiết yếu diễn nghĩa (禮記大全節要演義): Bản diễn nghĩa Lễ Ký (禮記), gồm 4 quyển.
- Dịch kinh đại toàn tiết yếu diễn nghĩa (易經大全節要演義): Bản diễn nghĩa Kinh Dịch (易經), do Phạm Quý Thích (范貴適) biên soạn.
- [https://lib.nomfoundation.org/collection/1/volume/115/ Đại Việt sử ký tiệp lục tổng tự] (大越史記捷綠總序): Tác phẩm Hán văn thời kỳ Tây Sơn tóm tắt lịch sử Đại Việt kèm bình luận bằng tiếng Việt.
Hình ảnh
