✨Fubuki (lớp tàu khu trục)
phải|Sơ đồ mô tả lớp Fubuki của Văn phòng Tình báo Hải quân Hoa Kỳ
Lớp tàu khu trục _Fubuki_ (tiếng Nhật: 吹雪型駆逐艦-Fubukigata kuchikukan) là một lớp bao gồm hai mươi bốn tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Lớp Fubuki được xem là "những tàu khu trục hiện đại đầu tiên của thế giới", không chỉ đặt ra tiêu chuẩn cho tàu chiến của Nhật Bản, mà còn là của tàu khu trục khắp thế giới. Vào lúc mà tàu khu trục của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và Hoa Kỳ chỉ thay đổi đôi chút từ kiểu không có tháp pháo, súng nòng đơn và vũ khí nhẹ; các tàu khu trục Nhật Bản đã lớn hơn, vũ khí mạnh hơn, và nhanh hơn mọi thứ mà hải quân các nước khác từng sở hữu. Chúng tiếp tục là những tàu chiến mạnh mẽ cho đến cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, cho dù đã cũ hơn nhiều so với nhiều đối thủ đương thời.
Bối cảnh
Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc, Bộ Tổng tham mưu Hải quân Đế quốc Nhật Bản đặt ra yêu cầu về một kiểu tàu khu trục có tốc độ tối đa 72 km/h (39 knot), có tầm hoạt động 7.400 km (4.000 hải lý) ở tốc độ đường trường 26 km/h (14 knot), và được trang bị một số lượng lớn ngư lôi Kiểu 8 vừa mới được phát triển. Những tàu khu trục này được dự định để hoạt động cùng loạt tàu tuần dương mới nhanh và mạnh mẽ vốn cũng đang được vạch kế hoạch, như một phần của chương trình có tham vọng cung cấp cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản một ưu thế về chất lượng so với những tàu chiến hiện đại nhất của thế giới.
Những chiếc trong lớp Fubuki nguyên thủy chỉ được dự định mang một số ký hiệu lườn, do một số lượng lớn các tàu chiến mà Hải quân Nhật mong muốn chế tạo trong kế hoạch Hạm đội 8-8. Điều này tỏ ra rất không quen thuộc đối với thủy thủ đoàn, và là nguồn gốc của sự nhầm lẫn thường xuyên trong liên lạc đối với các lớp Kamikaze và Mutsuki trước đó. Vì thế chính sách của Hải quân thay đổi vào tháng 8 năm 1928. Vì vậy, những chiếc trong lớp Fubuki được mang sẵn những cái tên ngay khi chúng được hạ thủy.
Những tàu khu trục tương đương gần nhất của Hải quân Hoa Kỳ là lớp Porter có tính năng kém hơn hẳn và vũ khí trang bị nhẹ hơn, và chỉ có tám chiếc được chế tạo trong những năm 1930 để hoạt động như những tàu chỉ huy hải đội khu trục.
Thiết kế
Thiết kế ban đầu của lớp Fubuki dựa trên một lườn tàu với trọng lượng rẽ nước tiêu chuẩn 2.000 tấn trang bị một khẩu pháo 127 mm (5-inch) duy nhất, hai bệ phóng ngư lôi 610 mm (24 inch) hai nòng (vừa được áp dụng cho lớp tàu khu trục Mutsuki), và có khả năng đạt được tốc độ tối đa 74 km/h (40 knot). Tiếp theo sau những giới hạn mà Hiếp ước Hải quân Washington đặt ra đối với việc vũ trang hải quân bắt đầu có hiệu lực từ năm 1923, thiết kế được cải tiến với trọng lượng rẽ nước tiêu chuẩn 1.680 tấn với thêm nhiều pháo và ống phóng ngư lôi. Tuy nhiên, sự gia tăng tải trọng của nó vượt quá mức có thể bù đắp từ các động cơ, đưa đến việc giảm tốc độ tối đa so với thiết kế ban đầu. Đạn pháo được cung cấp bằng cách nâng lên từ hầm đạn ngay bên dưới mỗi tháp pháo, nên có được tốc độ bắn nhanh hơn nhiều so với mọi tàu khu trục đương thời, tiêu biểu thường là được nạp đạn bằng tay. Mũi tàu được cho loe ra đáng kể nhằm tăng cường sự bảo vệ đối với thời tiết khắc nghiệt tại Thái Bình Dương.
Từ tháng 6 năm 1928 đến tháng 3 năm 1933, hai mươi bốn chiếc tàu khu trục thuộc lớp Fubuki, thuộc ba nhóm hoặc lớp phụ khác nhau đã được chế tạo. Khi hoàn tất, lớp Fubuki có các tháp pháo 127 mm (5 inch) nòng đôi bố trí trên các vị trí "A", "X" và "Y", cùng các ống phóng ngư lôi ba nòng trên các vị trí "D", "P" và "Q", làm cho chúng trở thành những tàu khu trục mạnh mẽ nhất thế giới vào lúc chúng được hoàn tất.
Sự phát triển
Nhóm đầu tiên, hoặc lớp phụ Fubuki, bao gồm mười chiếc đầu tiên được hoàn tất trong những năm 1928 và 1929, có cấu trúc đơn giản hơn những chiếc tiếp theo. Chúng có một máy đo tầm xa bố trí trên cầu tàu hoa tiêu, một phòng điều khiển hỏa lực bộc lộ, và được trang bị tháp pháo "Kiểu A" chỉ có thể nâng hai nòng pháo cùng một lúc và góc nâng tối đa chỉ đạt 40°. Nhóm những chiếc đầu tiên có thể phân biệt với những chiếc sau đó với đặc điểm không có các ống thông gió bên trên ống khói. số còn lại đã phục vụ trong cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương. Năm 1943, chiếc tàu tuần tra phóng lôi PT-109 của Tổng thống tương lai John F. Kennedy đã bị húc chìm bởi một chiếc trong lớp này, chiếc Amagiri. Tám chiếc đã bị đánh chìm bởi tàu ngầm, và hai chiếc do trúng phải thủy lôi. Chỉ có Hibiki và Ushio sống sót qua cuộc chiến tranh. Hibiki bị Hải quân Liên Xô tịch thu như một chiến lợi phẩm và tiếp tục sử dụng cho đến năm 1964.
Những chiếc trong lớp
Kiểu I (Fubuki)
Kiểu II (Ayanami)
Kiểu III (Akatsuki)
