✨Cải tạo kinh tế tại Việt Nam
Cải tạo kinh tế là một chính sách được thực thi tại các tỉnh phía Bắc sau 1954 và tại các tỉnh phía Nam mà chủ yếu là Thành phố Hồ Chí Minh sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 với mục tiêu "xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xoá bỏ bóc lột tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ giai cấp tư sản". Khi được áp dụng trong lĩnh vực công thương nghiệp, chính sách này mang tên cải tạo công thương nghiệp hay cải tạo công thương nghiệp tư doanh hay cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.
Cải tạo kinh tế tại miền Bắc Việt Nam
Trước tiên, vấn đề cải tạo này đã được thực hiện tại miền Bắc sau năm 1954. Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố: Thời kỳ khôi phục kinh tế đã kết thúc và mở đầu thời kỳ phát triển kinh tế một cách có kế hoạch.
Tháng 11 năm 1958, Đảng Lao động quyết định đề ra kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa trong 3 năm 1958–1960 và tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa (bao gồm hợp tác hoá nông nghiệp và cải tạo tư bản tư doanh), kế hoạch phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển văn hóa của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 12 năm 1958.
Từ ngày 16 đến ngày 30 tháng 4 năm 1959 và từ ngày 1 đến ngày 10 tháng 6 năm 1959, tại Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II đã họp Hội nghị lần thứ 16 (mở rộng) và ra Nghị quyết Về vấn đề hợp tác hoá nông nghiệp và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh theo chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết Hội nghị này khẳng định: "Một trong những nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là xoá bỏ kinh tế tư bản tư doanh, xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xoá bỏ bóc lột tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ giai cấp tư sản."
Sau đó chủ trương này được khẳng định nhiều lần là "xóa bỏ giai cấp tư bản và kinh doanh tư bản chủ nghĩa".
Cải tạo công nghiệp
Tại miền Bắc thời kỳ này, đại đa số gia đình tư sản, tiểu tư sản đã bị tịch thu tài sản và đi tập trung cải tạo. Chỉ đến 1960, cơ bản tư sản đã bị tiêu diệt, chỉ còn thành phần kinh doanh nhỏ lẻ vẫn bị lên kế hoạch tiêu diệt tiếp. Vấn đề Hoa kiều được chính phủ Việt Nam xem là một thử thách đối với chủ quyền quốc gia hơn là một vấn đề nội bộ đơn giản. Chính sách của Việt Nam năm 1976 (tịch thu tài sản của tư sản người Hoa) được tiến hành trong bối cảnh này.
Ngày 4 tháng 9 năm 1975, Chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiến hành Chiến dịch cải tạo tư sản miền Nam lần I. Ngày 15 tháng 7 năm 1976, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết 254/NQ/TW về những công tác trước mắt ở miền Nam, hoàn thành việc xoá bỏ giai cấp tư sản mại bản, tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Tháng 12 năm 1976, chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiến hành Chiến dịch cải tạo tư sản lần II. Tiếp theo, Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 3 năm 1977 quyết định hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh miền Nam trong 2 năm 1977–1978.
Tại trung ương lúc đó có một ban chuyên thực hiện cải tạo công thương nghiệp tư doanh có tên Ban cải tạo công thương nghiệp tư doanh Trung ương. Đến năm 1983, Ban này được giải tán, song lại thành lập Vụ cải tạo công thương nghiệp tư doanh thuộc Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, lúc đó, ông Đỗ Mười là người đứng ra thực hiện công tác cải tạo và làm rất tích cực.
Để thực thi, những tổ công tác mật được gấp rút thành lập, bắt đầu rà soát, lên danh sách những hộ gia đình kinh doanh, những gia đình giàu có phải vào diện "cải tạo tư sản". Nguyên tắc hàng đầu của các chiến dịch này là bí mật, bất ngờ. Những ông chủ, bà chủ chỉ bàng hoàng nhận biết những gì xảy ra khi cửa mở và tổ công tác đặc biệt bất ngờ có mặt, đọc quyết định "kê biên tài sản" của họ.
Nhà nước đã quốc hữu hoá và chuyển thành xí nghiệp quốc doanh đối với các xí nghiệp công quản và xí nghiệp "tư sản mại bản", tư sản bỏ chạy ra nước ngoài.
Cải tạo thương nghiệp
Đến đầu năm 1979, Nhà nước đã buộc 60.000 hộ (chiếm 26% tổng số hộ kinh doanh hàng công nghiệp) kinh doanh các mặt hàng vật tư và hàng công nghiệp do nhà nước quản lý phải chấm dứt hoạt động. Trưng mua hàng hóa của 30.000 hộ (chiếm 13% tổng số hộ kinh doanh hàng công nghiệp). Nhà nước cũng chuyển 42.000 người buôn bán sang sản xuất, chuyển hơn 8.000 người sang hoạt động trong hệ thống thương nghiệp quốc doanh.
Cải tạo các ngành khác
Sau khi thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhà nước đã quốc hữu hóa hoặc chuyển sang hình thức công tư hợp doanh khoảng 700 cơ sở xay xát nông sản tư nhân.
Trong lĩnh vực vận tải, nhà nước đã quốc hữu hóa các phương tiện vận tải do tư nhân sở hữu hoặc đưa các phương tiện này vào các công ty công tư hợp doanh và các hợp tác xã cơ giới. Nhà nước đã thành lập 15 xí nghiệp quốc doanh và 46 xí nghiệp công tư hợp doanh với hơn 16.000 xe (chiếm 76% tổng số xe), nhà nước cũng thành lập 199 hợp tác xã cơ giới đường bộ với gần 20.000 xe. Nhà nước quốc hữu hóa 17 tàu vận tải biển, quốc hữu hóa và chuyển sang hình thức công tư hợp doanh đối với 500 tàu vận tải đường sông, tổ chức 25 hợp tác xã vận tải đường sông với hơn 500 tàu.
Trong lĩnh vực xây dựng, nhà nước đã quốc hữu hóa, chuyển đổi các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng của tư nhân thành 10 xí nghiệp quốc doanh, 22 xí nghiệp công tư hợp doanh. Đã thực hiện cải tạo 150 nhà thầu xây dựng tư nhân để thành lập 8 xí nghiệp quốc doanh, 16 xí nghiệp công tư hợp doanh. Khoảng 10.000 công nhân xây dựng trong tổng số 16.000 người được tạo việc làm.
