✨Trần Quốc Tảng

Trần Quốc Tảng

Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng (chữ Hán: 興讓王陳國顙, 1252 - 1313) một tông thất hoàng gia, tướng lĩnh quân sự Đại Việt thời Trần. Ông là con trai thứ ba của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn và Thiên Thành Trưởng công chúa. Ông đã cùng cha chỉ huy quân dân đánh quân Nguyên xâm lược vào thời Trần Nhân Tông.

Sự nghiệp

Tháng 12 âm lịch năm Thiệu Bảo thứ 6 (1284), quân Nguyên Mông xâm lược Đại Việt lần thứ hai. Được tin đại quân do Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn chỉ huy thua các trận đánh quân Nguyên ở biên giới và rút về Vạn Kiếp, vua Trần Nhân Tông sai ông cùng Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, Minh Hiến vương Trần Quốc Uất và Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện đốc suất 20 vạn quân các xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà Hương, Yên Sinh, đến hội ở Vạn Kiếp, theo quyền điều khiển của Hưng Đạo vương để chống quân Nguyên. Năm 1289, sau 2 lần đánh bại quân Nguyên, thượng hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông xét công phạt tội, gia phong Hưng Đạo vương làm Đại vương, Hưng Nhượng vương làm Tiết độ sứ. Thời Trần Anh Tông, Hưng Nhượng vương rất ghét Nhập nội hành khiển thượng thư tả bộc xạ Trần Khắc Chung, mỗi khi thấy Khắc Chung thì mắng phủ đầu: "Thằng này là điềm chẳng lành đối với nhà nước. Họ tên nó là Trần Khắc Chung thì nhà Trần rồi mất về nó chăng?". Khắc Chung thường sợ hãi né tránh.

Xét theo phả hệ nhà Trần thì Trần Quốc Tảng chỉ ngang vai và là anh họ của Trần Nhân Tông, phải gọi Trần Thánh Tông bằng chú xưng cháu nên Hưng Ninh vương không thể là Trần Quốc Tảng.

Điển tích

Yên Sinh vương Trần Liễu trước đây vốn có hiềm khích với Trần Thái Tông, mang lòng hậm hực, tìm khắp những người tài nghệ để dạy Hưng Đạo vương Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, Yên Sinh cầm tay Quốc Tuấn trối trăng rằng: "Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được?".

Trần Hưng Đạo ghi điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải. Một hôm ông đem chuyện hỏi Quốc Tảng, và Quốc Tảng tiến lên thưa: " Tống Vũ Đế vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ".

Quốc Tuấn rút gươm kể tội: "Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra", định giết Quốc Tảng, Hưng Vũ vương hay tin, vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, Quốc Tuấn mới tha. Đến đây, ông dặn Hưng Vũ Vương: "Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng".

Vinh danh

Ông được thờ tại một số nơi như Đền Cửa Ông (phường Cửa Ông, thành phố Cẩm Phả, Quảng Ninh), miếu thờ tại đình Tả, xã Trác Châu (nay là thôn Trác Châu, xã An Thượng, thành phố Hải Dương), Văn Miếu (hay còn gọi là Văn Chỉ Linh Khê) thuộc thôn Linh Khê, xã Thanh Quang, huyện Nam Sách, đình Phúc Xá A, xã Cẩm Phúc, huyện Cẩm Giàng.

Trần Quốc Tảng cũng được thờ ở di tích chùa Đẩu Long, phường Tân Thành, thành phố Hoa Lư, Ninh Bình tương truyền ông từng có thực ấp ở đây.

Tên ông được đặt cho nhiều đường phố tại các thành phố trên khắp Việt Nam như Hạ Long (từ đường Trần Hưng Đạo đến phố Vạn Xuân), Cẩm Phả (từ đường Lý Thường Kiệt đến đường Hoàng Quốc Việt), Móng Cái, Bắc Ninh, Nam Định, Long Xuyên, ...

Gia đình

  • Phu nhân: Bảo Huệ quốc mẫu, không rõ xuất thân.
  • Hậu duệ:

    Văn Huệ vương Trần Quang Triều, lấy Thượng Trân công chúa Trần Thị Thục Tư, con gái Trần Nhân Tông.

    Văn Đức Phu nhân,bà là nguyên phối và được lập làm Hoàng thái tử phi của Trần Anh Tông khi còn ở tiềm để. Sau khi Anh Tông lên ngôi thì bị phế khi chưa làm Hoàng hậu.Không rõ nguyên nhân và cuộc sống sau này.

    Bảo Từ Thuận Thánh Hoàng hậu Trần Thị Phùng.Chị gái bị phế thì được sắc phong làm Thánh Bà Phu nhân. Năm Hưng Long thứ 17 (1309) được sách lập làm Hoàng hậu của Trần Anh Tông.

    Uy Huệ vương Trần Nguyên Đức, có con gái là Nguyên Huy Quận chúa