✨Tiếng Cờ Lao

Tiếng Cờ Lao

Tiếng Cờ Lao (tự gọi: Kláo, ) là một phương ngữ của tiếng Kra thuộc hệ ngôn ngữ Tai-Kadai. Nó được nói bởi những người Cờ Lao ở miền nam Trung Quốc và miền bắc Việt Nam.

Mặc dù có tới khoảng 580.000 người Cờ Lao theo thống kê năm 2000, nhưng chỉ có một vài nghìn người vẫn nói tiếng Cờ Lao. Tại Trung Quốc thì Li ước tính khoảng 3000 người vào năm 1999, trong đó 500 là đơn ngữ, còn Edmondson ước tính là 7900 vào năm 2008. Tại Việt Nam Edmondson ước tính chỉ có khoảng 350 người nói đơn ngữ vào năm 2002. Năm 2009, một cuốn sách được cho là viết bằng chữ Cờ Lao bản địa đã được tìm thấy ở Quý Châu, Trung Quốc, nhưng dựa theo thông thái cho thấy nó chắc chắn là giả.

Mối quan hệ ngoại tại

Giống như tiếng Bố Ương, tiếng Cờ Lao chứa nhiều từ có khả năng cùng nguồn gốc với ngữ hệ Nam Đảo.

Theo ghi nhận của Li và Zhou, tiếng Cờ Lao chia sẻ nhiều từ vựng với các ngôn ngữ Hlai và Ong Be, gợi ý liên hệ với những người nói tiếng tiền Hlai trước khi họ di cư đến Hải Nam.

Nhân khẩu học

Trung Quốc

Zhang Jimin ước tính tổng cộng hơn 10.000 người nói tiếng Cờ Lao vào đầu những năm 1990, trong khi Li Jinfang ước tính con số này ở mức 3.000 vào năm 1999. Ước tính năm 2008 của Jerold A. Edmondson là 7.900 người nói. Con số này đang giảm nhanh chóng, vì người Cờ Lao sống xen kẽ với người Hán, người Bố Y và người Miêu lân cận. Nhiều người nói tiếng Cờ Lao cũng có thể nói tiếng Bố Y, tiếng Tráng hoặc tiếng H'Mông và gần như tất cả đều có thể nói tiếng Trung Quốc địa phương. Trong số các gia đình nói tiếng Cờ Lao, hầu hết là ở độ tuổi trung niên có khả năng nói rất hạn chế đối với tiếng Cờ Lao, trong khi phần lớn thế hệ trẻ thậm chí không thể hiểu được những từ và cụm từ đơn giản nhất.

Zhou (2004) ghi nhận rằng không có hơn 6.000 người nói tiếng Cờ Lao, chỉ chiếm 1,2% tổng số người dân tộc Cờ Lao.

Việt Nam

Phương ngữ có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất là Cờ Lao Đỏ của Việt Nam, chỉ được nói bởi khoảng 50 người. Nhiều người nói đã chuyển sang Quan thoại Tây Nam hoặc tiếng H'mông. Người Cờ Lao Đỏ tự gọi mình là ', gửi cô dâu qua lại giữa các làng Na Khê và Bạch Đích ở huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang, Việt Nam và một ngôi làng khác ở Fanpo, huyện Ma Lật Pha, Vân Nam, Trung Quốc (tên tự gọi: ') để đảm bảo sự tồn tại liên tục của nhóm dân tộc của họ. Edmondson (1998) báo cáo rằng cũng có người Cờ Lao Đỏ ở Cán Tí, huyện Quản Bạ và Túng Sán, huyện Hoàng Su Phì không còn nói tiếng Cờ Lao nữa mà nói tiếng H'mong, tiếng Tày hay tiếng Việt. Hoàng (2013: 12) báo cáo rằng cũng có một số người Cờ Lao Đỏ ở xã Vĩnh Hảo, huyện Bắc Quang đã di chuyển từ xã Túng Sán. Tuy nhiên, người Cờ Lao Trắng của làng Phố La và làng Sính Lủng của huyện Đồng Văn vẫn nói được tiếng Cờ Lao Trắng.

Phương ngữ

Tiếng Cờ Lao không được ghi chép nhiều, chỉ được nghiên cứu bởi một vài học giả như Li Jinfang, Jerold A. Edmondson, Weera Ostapirat và Zhang Jimin. Ba phương ngữ ở Việt Nam không dễ hiểu lẫn nhau và ba phương ngữ ở Trung Quốc cũng có thể là những ngôn ngữ riêng biệt. Ethnologue phân loại tiếng Cờ Lao thành bốn ngôn ngữ, có lẽ liên quan chặt chẽ với hai ngôn ngữ La Chí cũng như giữa chúng với nhau.

Ostapirat (2000), Edmondson (2008)

Ostapirat (2000) đã đề xuất ba phân khu chính cho tiếng Cờ Lao, với tổng số 17 biến thể. Các nhánh Trung và Tây Nam chia sẻ những đổi mới về âm vị học, cho thấy sự phân chia ban đầu với nhánh phía Bắc. Edmondson cũng đề xuất rằng Cờ Lao Đỏ ở khu vực biên giới Trung Quốc-Việt Nam trên thực tế có thể tạo thành một nhánh chính riêng biệt của tiếng Cờ Lao.

Từ vựng

Từ vựng tiếng Cờ Lao Trắng, tiếng Cờ Lao Xanh và tiếng Cờ Lao Đỏ ở bắc Việt Nam: