✨Taiga
Rừng taiga có tại khu vực có vĩ độ cao của Bắc bán cầu, chỉ dưới [[đài nguyên|tundra (lãnh nguyên) và phía trên của các thảo nguyên.]] Taiga hay rừng taiga (; bắt nguồn từ một ngôn ngữ Turk) là một khu sinh thái với đặc trưng nổi bật là các rừng cây lá kim. Taiga bao phủ hầu hết phần trên đại lục của Alaska, Canada, Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy và Nga (đặc biệt là Siberi), cũng như phần xa nhất về phía bắc của Hoa Kỳ (không kể Alaska), bắc Kazakhstan và khu vực Hokkaido của Nhật Bản. Rừng taiga là quần xã sinh vật đất liền lớn nhất trên thế giới. Tại Canada, thuật ngữ boreal forest (rừng phương bắc) được sử dụng để chỉ phần phía nam của quần xã sinh vật này, trong khi "taiga" được dùng để chỉ khu vực phía bắc trơ trụi hơn, ở phía nam của ranh giới cây gỗ Bắc Cực.
Do Bắc Mỹ và đại lục Á-Âu trong quá khứ gần đây đã được nối liền bằng cầu đất liền Bering, nên một loạt các loài động-thực vật (chủ yếu là động vật) đã có thể xâm chiếm cả hai lục địa này và được phân bổ trong quần xã sinh vật taiga. Các nhóm sinh vật khác thì khác biệt theo khu vực, thông thường với mỗi chi có vài loài khác biệt, chúng chiếm các khu vực khác nhau của rừng taiga. Rừng taiga cũng có một số loài cây gỗ lá nhỏ sớm rụng như bạch dương, tống quán sủi, liễu và dương rung; chủ yếu trong các khu vực không có mùa đông quá lạnh. Tuy nhiên, các loài thông rụng lá lại sinh sống trong những khu vực có mùa đông lạnh giá nhất ở Bắc bán cầu, tại miền đông Siberi. Phần phía nam của rừng taiga còn có các loài cây như sồi, phong và du rải rác trong các rừng cây lá kim.
Địa lý và khí hậu
[[Vân sam trắng (Picea glauca) trong rừng taiga, quốc lộ Denali, dãy núi Alaska, Alaska.]] Quần xã sinh vật taiga có khí hậu lục địa khắc nghiệt với sự dao động về nhiệt độ rất lớn giữa mùa hè và mùa đông, được phân loại ở cấp "Dfc" hay "Dfb" trong sơ đồ phân loại khí hậu Köppen. Cùng với tundra và các chỏm băng vĩnh cửu, nó là quần xã sinh vật lạnh nhất trên Trái Đất. Do nằm ở vĩ độ cao nên phần lớn thời gian trong năm, Mặt Trời không lên quá cao so với đường chân trời; mùa đông kéo dài ít nhất là 5-6 tháng, với nhiệt độ trung bình là dưới điểm đóng băng của nước. Nhiệt độ dao động trong khoảng từ -50 °C tới +30 °C trong một năm, với 8 tháng hoặc hơn thế với nhiệt độ trung bình dưới 10 °C. Mùa hè ngắn ngủi nhưng nói chung là ấm và ẩm ướt. Nói chung, rừng taiga phát triển ở phía bắc của đường đẳng nhiệt 10 °C tháng Bảy, đôi khi tới đường đẳng nhiệt 9 °C tháng Bảy. Giới hạn phía nam biến đổi khá rõ nét, phụ thuộc vào lượng mưa; rừng taiga có thể bị thay thế bằng các đồng rừng thảo nguyên thưa về phía nam của đường đẳng nhiệt 15 °C tháng Bảy khi lượng mưa tại đó là rất thấp, nhưng nói chung thường kéo dài tới phía nam của đường đẳng nhiệt 18 °C tháng Bảy, và ở những khu vực có lượng mưa cao hơn (đáng chú ý là miền đông Siberi và khu vực cận kề ở phía bắc Mãn Châu) thì kéo dài tới phía nam của đường đẳng nhiệt 20 °C tháng Bảy. Trong các khu vực ấm hơn, rừng taiga có sự đa dạng cao hơn về loài với các loài ưa môi trường ấm như thông Triều Tiên, vân sam Jezo và linh sam Mãn Châu, và dần dần hợp nhất vào các cánh rừng ôn đới hỗn hợp, còn ở các khu vực như trên vùng bờ biển ven Thái Bình Dương của châu Á và Bắc Mỹ thì chúng hợp nhất thành các rừng mưa ôn đới lá kim.
Khu vực rừng taiga thường có lượng giáng thủy thấp trong cả năm (trung bình hàng năm khoảng 200–750 mm), chủ yếu là do các trận mưa trong các tháng mùa hè, nhưng tuyết và sương cũng góp một phần đáng kể. Do tốc độ bay hơi là thấp trong phần lớn thời gian của năm nên lượng giáng thủy là cao hơn lượng bốc hơi và vì thế nó là đủ để phát triển các thảm thực vật rậm rạp.Tuyết có thể tồn tại trên mặt đất tới 9 tháng ở phần xa nhất về phía bắc của khu vực sinh thái taiga.
Phần lớn khu vực hiện nay được phân loại là taiga thì trong quá khứ gần đây đã từng bị đóng băng. Khi các sông băng rút lui, chúng để lại các chỗ lún xuống trong địa hình và sau đó được nước chiếm chỗ, tạo ra các hồ và đầm lầy (đặc biệt là đất đầm lầy), được tìm thấy nhiều nơi trong rừng taiga.
Đất
Các loại đất trong khu vực taiga có xu hướng là đất trẻ và nghèo dinh dưỡng; nói chung không có phẫu diện giàu hữu cơ và dày như ở các rừng sớm rụng ôn đới. Hình thức lâm nghiệp chính trong các rừng phương bắc ở Canada là đốn hạ hết (sạch), trong đó phần lớn (nếu không phải tất cả) các cây to bị đốn hạ từ khoảng rừng được khai thác. Việc đốn hạ hết tới 11.000 hecta đã được ghi nhận tại Canada. Một số sản phẩm từ rừng phương bắc Canada như giấy vệ sinh, giấy viết, giấy in báo và gỗ xẻ. Trên 80% sản phẩm của rừng phương bắc từ Canada được xuất khẩu để chế biến và tiêu thụ tại Hoa Kỳ.