✨Nhà lao thiếu nhi Đà Lạt

Nhà lao thiếu nhi Đà Lạt

Nhà lao thiếu nhi Đà Lạt (tên chính thức: Trung tâm Giáo huấn thiếu nhi Đà Lạt) là một bảo tàng và di tích lịch sử tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam. Đây từng là một nhà tù giam giữ hơn 600 thiếu niên miền Nam ở độ tuổi từ 12 đến 17. Năm 2009, Nhà lao được công nhận là Di tích quốc gia.

Lịch sử

Trong thời kỳ 1968–1970, một loạt các trận chiến lớn bùng nổ trên chiến trường miền Nam Việt Nam; nhiều người lính tại miền Nam bị bắt làm tù binh, trong đó có cả những tù binh nhỏ tuổi. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã tách số tù binh thành hai nhóm: dưới và trên 18 tuổi.

Đầu năm 1971, Việt Nam Cộng hòa thành lập nhà lao với tên gọi Trung tâm giáo huấn thiếu nhi Đà Lạt trên đồi Chi Lăng Ngày 23 tháng 4 năm 1971, 126 tù nhân được đưa về giam giữ từ Nhà lao Kho Đạn (Đà Nẵng). Sau đó, nhà tù tiếp nhận thêm thiếu nhi từ các tỉnh như Hội An, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bến Tre. Đợt thứ ba gồm tù nhân đến từ nhiều nhà lao ở miền Nam như Côn Đảo, Chí Hòa,...

Đầu tháng 6 năm 1973, nhà lao phải giải tán.

Năm 2010, Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng giao Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch làm chủ đầu tư dự án tu bổ và tôn tạo nhà lao; cho đến năm 2013, dự án được triển khai. Ngày 25 tháng 4 năm 2016, sau hai năm trùng tu, di tích chính thức được khánh thành; buổi lễ có sự hiện diện của nguyên Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa, chính quyền tỉnh Lâm Đồng và hơn 300 cựu tù nhân từng bị bắt giam tại đây. Nhà nước Việt Nam xem sự tham gia của trẻ em trong chiến tranh Việt Nam là "minh chứng cho truyền thống cách mạng anh hùng, bất khuất của tuổi trẻ Việt Nam";

Kiến trúc

Phía trước nhà lao có một án ngữ hình chữ A, là nơi làm việc của ban quản lý. Nhà tù được xây dựng thành một hình chữ nhật khép kín, bao quanh là tường đá. Các dãy nhà dọc phần lớn là phòng giam và xà lim; các dãy ngang tạo thành hai khoảnh sân ở giữa, là nơi mà tù nhân hoạt động khi ở ngoài phòng giam. Khoảnh sân thứ nhất là khu vực sân cờ, ở giữa treo quốc kỳ Việt Nam Cộng hòa. Nhà lao có tám phòng giam, sáu phòng dành cho tù nhân nam và hai phòng dành cho tù nhân nữ. Mỗi phòng có diện tích khoảng 30 m², thường giam 60–80 tù nhân, những lúc cao điểm có thể lên đến gần 100 người.

Tổ chức

Các tù nhân sau khi được chuyển về sẽ được phân loại và sẽ được giam giữ tại những căn phong khác nhau tùy theo mức án: mức án nhẹ là phòng giam tập thể; nặng hơn bị giam vào xà lim; bị nhốt vào hầm đá là những tù nhân được xếp vào hạng "đầu sỏ", "đặc biệt nguy hiểm". Theo Báo Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh, những vết thương do mổ bụng đã không nhiễm trùng mà tự lành sau vài ngày, không cần đến thuốc cầm máu hay kháng sinh mà chỉ dùng muối và nước tiểu để rửa, xát vào chỗ bị thương.

Hệ quả

10 phút sau khi được Thái Bá Tro yêu cầu, tỉnh trưởng Tuyên Đức Nguyễn Hợp Đoàn đã có mặt tại nhà lao. Theo nhiệm vụ được các đồng đội tù nhân giao, Tro đưa ra năm yêu sách:

Một cai ngục có tên là Nguyễn Cương, Trưởng ban trật tự lưu động. Ông thường tra tấn tù nhân bằng những hình thức như: đạp giày đinh vào đầu, lột quần áo, gí bóng đèn vào người cho cháy da thịt, dùng roi da đính móc sắt nhỏ đánh vào người,... Vì thế, các tù nhân rất căm phẫn và muốn giết Cương. Phát hiện một cọng thép dài 5 mm trên vành máng xối của khu nhà ăn, họ quyết định dùng nó làm vũ khí, hằng ngày bí mật mài một ít rồi xé quần áo để làm tay cầm. Đêm ngày 23 tháng 1 năm 1973, khi Nguyễn Cương bước vào, các tù nhân dùng que sắt đâm liên tiếp vào người ông. Tuy còn sống nhưng ông bị thương tật 60% sức khỏe và phải nằm điều trị ba tháng tại bệnh viện.

Hình phạt đối với tù nhân

Các tù nhân bị tra tấn bằng nhiều cách như: còng chéo, đánh bằng roi tết lằm bằng dây điện, dây kẽm gai, gậy hướng đạo, hoặc dùng bóng điện cao áp ấn vào mặt. Vào mùa đông, khi nhiệt độ ban đêm có thể xuống dưới 15 °C, lính còn dội nước lạnh vào người của những tù nhân bị biệt giam tại xà lim. Những thiếu nhi bị nhốt vào hầm đá phải chịu bị phơi sương, phơi nắng như một hình phạt. Ngày 22 tháng 6 năm 2009, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận nhà lao là Di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia; Ngoài ra, vào ngày 6 tháng 12 cùng năm, tập thế cựu tù chính trị và bốn cá nhân bao gồm: liệt sĩ Trần Bình, Ngô Tùng Chinh (Ngô Kỳ), Mai Thanh Minh (Mai Bốn) và Đặng Bảo Xi được phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Nhận định

Cố nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu và nhà chính trị Trần Bạch Đằng chia sẻ: