✨Nguyễn Phúc Miên Mật
Nguyễn Phúc Miên Mật (chữ Hán: 阮福綿宓, 17 tháng 8 năm 1825 – 23 tháng 5 năm 1847), hiệu là Vân Đình (芸亭), tước phong Quảng Ninh Quận vương (廣寧郡王), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử
Hoàng tử Miên Mật sinh ngày 4 tháng 7 (âm lịch) năm Ất Dậu (1825), là con trai thứ 30 của vua Minh Mạng, mẹ là Tứ giai Huệ tần Trần Thị Huân. Ông là người con thứ ba của bà Huệ tần. Lúc trẻ hoàng tử thông minh đĩnh ngộ, vốn thích học viết khi mới trưởng thành, ra học thầy dạy bên ngoài, không sách gì là không đọc, vua rất yêu quý.
Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), ông được phong làm Ninh Quốc công (寧國公). Cùng năm đó, vua cho đúc các con thú bằng vàng để ban thưởng cho các hoàng thân anh em, các hoàng tử công và hoàng tử chưa được phong tước. Quốc công Miên Mật được ban cho một con hổ bằng vàng nặng 4 lạng 6 đồng cân. Vua còn ban thuyền cho các hoàng tử đã được phong tước là quốc công Miên Mật, Tùng Quốc công Miên Thẩm, Hoà Quốc công Miên Quân, Hàm Thuận công Miên Thủ và Lạc Hoá Quận công Miên Vũ để theo hầu.
Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), thấy hoàng đệ Miên Mật học hành tấn tới, tính tình ôn hòa, cung kính nên ông được tấn phong làm Quảng Ninh công (廣寧公), cùng với hoàng đệ Miên Bảo được gia phong làm Tương An công.
Năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), ngày 10 tháng 4 (âm lịch) năm Đinh Mùi, thân công Miên Mật qua đời, hưởng dương 23 tuổi. Nghe tin ông mất, vua thương tiếc, nghỉ chầu 3 ngày, cho 3000 quan tiền lo việc tang, sai quan đến tế, ban thụy là Đôn Hòa (敦和).
Năm 1878, nhân tiết Ngũ tuần đại khánh (lễ mừng thọ 50 tuổi của vua) của Tự Đức, vua cho là ông và Tương An công Miên Bảo đều có học hạnh, đều là người em yêu quý của tiên triều (tức vua Thiệu Trị), chẳng may mất sớm, chưa kịp ban cho ơn huệ, xuống dụ truy phong cả hai tước Quận vương vụt chắc chết đi, mà lúc sắp chết còn dặn lại nơi làm việc ấy. Thần rất đau đớn về người mất của còn để lại, sau tình anh em, tự thẹn không được như Vân Câu tính trời đôn hậu. Nhưng được biết như Nguyên Bá biểu người bạn chí thiết Nghĩa chẳng sai lời, may mà xong việc. Nhớ lại những câu nói bàn của vương lúc sinh thời dám mong được văn chương của hoàng thượng nêu khen lên cho. Cúi xin: sau khi muôn việc đã rỗi, ban cho ngòi son, một chữ vẻ vang, thấm tươi lá ngọc. Để cho trong tập Tô Học sĩ, truyền mãi thiên Kiền Đạo. Đừng để sau khi Lư Doãn Ngôn chết rồi, riêng được thời Thái Hòa yêu quí vậy.''
Năm 1855, Tự Đức có dụ rằng:"Cố Quảng Ninh Công Miên Mật, giữ tính kính hòa chín chắn, vui điều thiện thích văn chương. Khi trẫm còn ở tiềm để, thường cùng nhau ngồi họa một chiếu. Cũng có ích về giúp việc nhân. Tuổi thọ trời cho có ít không được trông thấy ngày nay, lòng trẫm vẫn thường nhớ đến. Bèn thân chế bài thơ, sai quan đến từ đường làm lễ tế và đem lời dụ, bài thơ tuyên đọc để tỏ ra ý nêu khen người hiếm giỏi". Mộ của ông được táng tại Dương Xuân (hiện nay tọa lạc trên đường Vũ Ngọc Phan, phường Thủy Xuân, Huế). Năm 1885, ông được hợp thờ ở đền Thân Huân.
Phủ thiếp Nguyên cơ (chánh thất) của ông là bà Trương Thị Bàn, con gái của đại thần Trương Đăng Quế, sau tái giá với Thượng thư bộ Hộ là Hoàng Văn Tuyển.