✨I-16 (tàu ngầm Nhật)
I-16 là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc dẫn đầu của lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã phóng tàu ngầm bỏ túi tham gia Tấn công Trân Châu Cảng và trong cuộc tấn công tàu bè Đồng Minh tại Diego-Suarez, Madagascar, tham gia tuần tra càn quét tàu bè trong Ấn Độ Dương cũng như tham gia các Chiến dịch Guadalcanal, New Guinea và Bougainville trước khi bị tàu hộ tống khu trục Hoa Kỳ đánh chìm tại khu vực Bougainville vào ngày 19 tháng 5, 1944.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế
Tàu ngầm Type C được thiết kế dựa trên phân lớp KD6 của lớp Kaidai dẫn trước, nhưng trang bị vũ khí ngư lôi mạnh hơn để tấn công tầm xa. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, lườn tàu có chiều dài , mạn tàu rộng và mớn nước sâu . Con tàu có thể lặn sâu đến .
Tàu ngầm Type C được trang bị hai động cơ diesel công suất , mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất . Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa và khi lặn dưới nước, tầm xa hoạt động của Type C là ở tốc độ , và có thể lặn xa ở tốc độ .
Các con tàu có tám ống phóng ngư lôi , tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 20 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo , cùng hai pháo phòng không 25 mm Type 96 nòng đơn hoặc nòng đôi. Các bộ gá trên boong tàu phía sau tháp chỉ huy cho phép nó vận chuyển và phóng một tàu ngầm bỏ túi Type A (Kō-hyōteki).
Chế tạo
Được đặt hàng trong Chương trình Maru 3 năm 1937, I-16 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 44 tại xưởng tàu của hãng Mitsubishi tại Kobe vào ngày 15 tháng 9, 1937. Nó được đổi tên thành I-16 vào ngày 1 tháng 6, 1938
Trung tá Hải quân Yamada Kaoru tiếp nhận quyền chỉ huy I-16 từ ngày 31 tháng 7, 1941, Lúc 22 giờ 41 phút ngày 7 tháng 12, I-16 nhận được bức điện từ Số 16 mô tả cuộc không kích là thành công, rồi đến 00 giờ 51 phút ngày 8 tháng 12, là một bức điện khác báo cáo "Không thể di chuyển." nên vào ngày 8 tháng 4, Hải quân Nhật Bản quyết định phái Đội tàu ngầm 1 đến hoạt động ngoài khơi bờ biển Đông Phi, nên rút đơn vị này từ Kwajalein để quay trở về Nhật Bản. Đến ngày 16 tháng 4, I-16 được điều sang Đơn vị "A" mới được thành lập trong biên chế Hải đội Tàu ngầm 8, bao gồm I-10, I-18, I-20, I-30, các tàu ngầm bỏ túi cùng các tàu tuần dương phụ trợ và , vốn sẽ hoạt động như những tàu tiếp liệu cho tàu ngầm. Phần còn lại của Đơn vị "A" đi đến Penang vào ngày 27 tháng 4, nơi họ gặp gỡ tàu chở thủy phi cơ Nisshin,vốn được cải biến để vận chuyển tàu ngầm bỏ túi Type A. Các nạn nhân tiếp theo của nó bao gồm Ro-106 vào ngày 22 tháng 5, Ro-104 vào ngày 23 tháng 5, Ro-116 vào ngày 24 tháng 5, Ro-108 vào ngày 26 tháng 5, và Ro-105 vào ngày 31 tháng 5.
Đến ngày 25 tháng 6, 1944, Hải quân Nhật Bản công bố I-16 có thể đã bị mất tại khu vực quần đảo Solomon với tổn thất toàn bộ 107 thành viên thủy thủ đoàn. Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 10, 1944.
Tóm tắt chiến công
I-16 đã đánh chìm được bốn tàu chiến với tổng tải trọng :