✨Họ Hồng hoàng

Họ Hồng hoàng

Họ Hồng hoàng hay họ Mỏ sừng (danh pháp khoa học Bucerotidae), là một họ chim, theo truyền thống xếp trong bộ Coraciiformes. Tuy nhiên, gần đây người ta xếp nó cùng các họ Upupidae, Phoeniculidae, Bucorvidae trong bộ Bucerotiformes, do việc xếp các họ này trong bộ Coraciiformes làm cho nó trở thành cận ngành với bộ Piciformes.

Phân loại học

[[Hồng hoàng mũ cát với sừng hồng hoàng]] [[Ocyceros griseus]] [[Tê điểu cái]] [[Mỏ sừng nâu đỏ]] [[Bycanistes subcylindricus]]

  • Aceros Hodgson, 1844: 1 loài (Aceros nipalensis – niệc cổ hung)
  • Anorrhinus Reichenbach, 1849: 3 loài niệc nâu
  • Anthracoceros Reichenbach, 1849: 5 loài cao cát
  • Berenicornis Bonaparte, 1850: 1 loài (Berenicornis comatus – niệc đầu trắng)
  • Buceros Linnaeus, 1758: 3 loài hồng hoàng, phượng hoàng đất
  • Bycanistes Cabanis & Heine, 1860: 6 loài
  • Ceratogymna Bonaparte, 1854: 2 loài
  • Horizocerus: Oberholser, 1899: 1 loài (Horizocerus hartlaubi)
  • Lophoceros Ehrenberg, 1833: 7 loài
  • Ocyceros Hume, 1873 : 3 loài
  • Penelopides Reichenbach, 1849: 5 loài
  • Rhabdotorrhinus Meyer và Wiglesworth, 1898: 4 loài
  • Rhinoplax Gloger, 1841: 1 loài (Rhinoplax vigil)
  • Rhyticeros Reichenbach, 1849: 6 loài niệc mỏ vằn
  • Tockus Lesson, 1830: 10 loài
  • Tropicranus W.L. Sclater, 1922: 1 loài (Tropicranus albocristatus)

Phát sinh chủng loài

Cây phát sinh chủng loài của họ Hồng hoàng vẽ dưới đây lấy theo Gonzalez et al. (2013a). Họ đã phân tích tất cả các loài hồng hoàng với việc sử dụng DNA của cả hạt nhân lẫn ti thể. Ở cấp độ chi, các kết quả của họ khớp với kết quả của Viseshakul et al. (2011), một phân tích chỉ sử dụng gen cytochrome-b. Viseshakul et al. phát hiện ra rằng phần lớn sự đa dạng của họ Hồng hoàng thực sự là cổ xưa và Gonzalez et al. (2013a)

Có hai điều ngạc nhiên ở cấp độ loài trong Gonzalez et al. (2013) và Delport et al. (2004). Một số nhánh trong niệc mỏ đỏ được gộp lại trong Viseshakul et al. (2011) cũng hỗ trợ kiểu xử lý này.

Hiện trạng và bảo tồn

Không có loài chim mỏ sừng châu Phi nào bị đe dọa nghiêm trọng, nhưng nhiều loài chim mỏ sừng châu Á bị đe dọa do săn bắn và mất môi trường sống, vì chúng có xu hướng yêu cầu rừng nguyên sinh. Trong số các loài bị đe dọa này, chỉ có loài niệc túi phẳng (Rhyticeros subruficollis) và niệc cổ hung (Aceros nipalensis) được tìm thấy trên lục địa châu Á; tất cả những loài khác là biển đảo trong phân bố của chúng. Chỉ riêng ở Philippines, cao cát Palawan (Anthracoceros marchei) là sắp nguy cấp và hai loài gồm niệc Mindoro (Penelopides mindorensis) và niệc Visaya (Penelopides panini) là nguy cấp. Các loài chim mỏ sừng cực kỳ nguy cấp gồm có niệc Walden (Rhabdotorrhinus waldeni) và cao cát Sulu (Anthracoceros montani), cũng chỉ giới hạn ở Philippines. Cao cát Sulu cũng là một trong những loài chim hiếm nhất thế giới, chỉ với 20 cặp sinh sản hoặc 40 cá thể trưởng thành và phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng sắp xảy ra. Niệc Ticao, một phân loài của niệc Visaya, có lẽ đã bị tuyệt chủng.